SẢN XUẤT CÀ PHÊ THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở VÙNG TÂY NGUYÊN

Trương Hồng – Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên – WASI

1. Giới thiệu

            Biến đổi khí hậu (BĐKH) là những thay đổi theo thời gian của các yếu tố khí hậu, trong đó bao gồm cả những hoạt động do con người gây ra. Hiện nay BĐKH đã và đang gây ra tác động xấu đến môi trường và sản xuất nông nghiệp.

            Theo dự báo của các nhà khoa học nếu như tình hình phát thải khí nhà kính không giảm thì vào năm 2030 nồng độ của khí CO2 trong khí quyển sẽ tăng gấp đôi so với thời kỳ tiền công nghiệp, khoảng 700 ppm. Hiệu ứng nhà kính làm nhiệt độ trái đất tăng lên kéo theo hàng loạt các yếu tố khí hậu khác như: lượng mưa, độ ẩm, bức xạ… thay đổi theo. Tần suất và cường độ hiện tượng El – Nino tăng đáng kể, gây lũ lụt và hạn hán ở các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Mưa trở nên thất thường hơn, cường độ thay đổi, hiện tượng thời tiết cực đoan ngày càng xuất hiện với tần suất dày hơn.

            Theo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (WB), Việt Nam đ­ược xem là một trong những n­ước sẽ bị ảnh h­ưởng nặng do biến đổi khí hậu toàn cầu. BĐKH sẽ làm hạn hán xảy ra hàng năm ở hầu hết các khu vực của cả nước. Nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,10oC/thập kỷ. Nhiệt độ tăng và lượng mưa thay đổi sẽ ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và nguồn nước. Mực nước biển có khả năng dâng cao 1m vào cuối thế kỷ, lúc đó Việt Nam sẽ mất hơn 12% diện tích đất đai, nơi cư trú của 23% số dân. BĐKH làm gia tăng nhiệt độ, do vậy sẽ làm tăng mực nước biển. Khi mực nước biển dâng từ 0,2 – 0,6m sẽ có từ 100.000 – 200.000ha đất bị ngập, làm thu hẹp diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Hiện tượng xâm ngập mặn sẽ tăng lên đáng kể. 

            Bộ Tài nguyên – Môi trường thông báo: trong thập kỷ tới, khoảng từ năm 2010-2020, nhiệt độ trung bình của Việt Nam sẽ tăng không dưới 1,5 độ C; số trận lũ lụt trên cả nước sẽ tăng khoảng 20%. Chương trình Phát triển Liên hiệp Quốc (UNDP) cũng cảnh báo: mực nước biển chỉ cần tăng lên 1m thì Việt Nam sẽ bị tác động tới 12,2 % diện tích đất đai; 19 % tổng dân số (17 triệu người); 7% nông nghiệp; giảm 10% GDP.

      BĐKH làm thay đổi điều kiện sống của các loài sinh vật, phá vỡ cân bằng sinh thái, làm biến mất đi một số loài và nguy cơ xuất hiện nhiều loại bệnh dịch mới trong sản xuất nông nghiệp. BĐKH tác động đến thời vụ, làm thay đổi cấu trúc mùa vụ, tác động xấu đến chăn nuôi, trồng trọt… cụ thể tác động đến sinh trưởng, năng suất cây trồng, thời vụ gieo trồng và sự chuyển dịch về cơ cấu cây trồng, vật nuôi và diện tích cây trồng. BĐKH cũng làm tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh hại cây trồng, ảnh hưởng đến sinh sản, sinh trưởng của gia súc, gia cầm. Nhiệt độ và lượng bốc hơi tăng cùng với hạn hán kéo dài sẽ tác động mạnh đến hệ sinh thái, đặc biệt hiện tượng cháy rừng sẽ xảy ra nhiều hơn và làm suy giảm đa dạng sinh học.

 

2. Biến đổi khí hậu đã và đang làm tăng nhiệt độ và suy giảm nguồn tài nguyên nước ở Tây Nguyên

2.1. BĐKH làm tăng nhiệt độ ở Tây Nguyên

            Liên Hiệp Quốc dự báo BĐKH sẽ làm cho nhiệt độ tăng 2,39 oC vào năm 2100. Số ngày nóng ở Tây Nguyên dự báo sẽ tăng lên 134 vào năm 2050 và 230 vào năm 2100.

           Các nhà khoa học sử dụng số liệu quan trắc từ 30 năm đến 33 năm (1979 -2008) để so sánh, đánh giá so với thập niên 1979 -1988, đã nhận thấy rằng nhiệt độ không khí trung bình thập niên 1999 – 2008 cao hơn rõ rệt, nhất là vào các tháng mùa Đông và trên độ cao từ 100 mét đến 800 mét. Nhiệt độ trung bình năm phổ biến cao hơn từ 0,5oC đến 0,8oC; riêng Kon Tum, cao hơn 1oC. Trong khi đó nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam tăng khoảng 0,5oC đến 0,7oC. Nhiệt độ trung bình các tháng mùa Đông cao hơn hẳn so với các thời kỳ khác, tiêu biểu là tháng 1, phổ biến cao hơn từ 0,8oC đến 1,5oC, cá biệt có trạm ở Kon Tum cao hơn 1,7oC. Trong 3 tháng chính Đông, nhiệt độ trung bình phổ biến cao hơn từ 0,8oC đến 1,4oC; riêng thành phố Pleiku cao hơn 1,76oC. Trong các tháng mùa hè, nhiệt độ trung bình phổ biến cao hơn 0,23oC đến 0,7oC. Điều này khẳng định sự tăng của nhiệt độ và nhiệt độ mùa Đông tăng nhanh hơn mùa Hè rõ rệt.

            Theo kịch bản về BĐKH của Bộ tài nguyên Môi trường năm 2009 thì Tây Nguyên vào năm 2100, nhiệt độ sẽ tăng lên khoảng 2,39oC; thấp nhất trong 7 vùng sinh thái của cả nước. Vùng Đông Bắc Việt Nam nhiết độ tăng cao nhất, lên đến 4,38 oC.

Bảng 1. Kịch bản BĐKH các vùng của Việt Nam

(nhiệt độ tăng thêm 0C so với năm 1990)

Năm

Tây Bắc

Đông Bắc

Đồng bằng BB

Bắc Trung Bộ

Nam Trung Bộ

Tây nguyên

Nam Bộ

2050

1,41

1,66

1,44

1,68

1,13

1,01

1,21

2100

3,49

4,38

3,71

3,88

2,77

2,39

2,80

Nguồn: Bộ Tài Nguyên Môi trường, 2009

Trong điều kiện El Nino, nhiệt độ trung bình các tháng ở hầu hết các vùng trong cả nước có xu hướng cao hơn TBNN và xuất hiện nhiều hơn các kỷ lục về nắng nóng so với những năm trung tính hay La Nina. Trong năm 2015, 2016 do tác động của El Nino, Việt Nam đã xảy ra 14 đợt nắng nóng diện rộng ở miền Trung, Tây Nguyên và Nam Bộ từ tháng 5 đến tháng 9 và nhiệt độ cao hơn trung bình nhiều năm từ 0,5 – 1o C.

2.2. BĐKH làm cho nguồn tài nguyên nước suy giảm

            Tài nguyên nước mặt trên các sông suối điển hình ở lưu vực Tây Nguyên như Sê San, Sê rê Pốk, sông Ba và Đồng Nai đã kiệt dần từ lưu lượng 173.863l/s của những năm 2004-2005 xuống còn trên dưới 125.000l/s hiện nay.

            Sự phân bổ không đồng đều của lượng mưa theo không gian và thời gian, nơi có lượng mưa hằng năm lớn hơn 3.000 mm như Kon Plong (Kon Tum) và nơi có lượng mưa chỉ trên dưới 1.500 mm như Krông Buk, Ea Súp… thì sự chênh lệch lưu lượng nước ở đỉnh lũ lớn nhất với lưu lượng kiệt nhỏ nhất là rất cao. Những năm gần đây rừng Tây Nguyên bị chặt phá nghiêm trọng, cộng với những yếu tố bất lợi như mùa khô kéo dài, sự biến đổi thất thường của thời tiết làm cho lũ lụt, hạn hán trở nên trầm trọng hơn. Ngoài ra, Tây Nguyên là nơi thượng nguồn của 3 hệ thống sông lớn (Sê rê pốk – Sê San nằm ở phía Tây Bắc và sông Đồng Nai ở phía Nam), người dân tận lực khai thác nước ngầm ngay tại đầu nguồn để tưới cà phê, hoa màu khiến mực nước dưới lòng đất không ngừng bị hạ thấp, dẫn đến quá trình sản xuất tại các vùng hạ lưu gặp khó khăn do thiếu nước.

            Từ năm 1997, tổng trữ lượng nước ngầm (ở trạng thái tĩnh, không có sự tác động bất thường của môi trường tự nhiên) tại Đăk Lăk là 120,9 x 109 m3 đến nay chỉ còn khoảng 30-35%. Ngoài lượng mưa hàng năm có xu hướng ít đi, do mùa khô kéo dài, cùng với tình trạng mất rừng nghiêm trọng đã làm thay đổi nhanh chóng của lớp phủ bề mặt, tăng nguy cơ xói mòn, suy thoái đất và mực nước ngầm sụt giảm. Theo Đoàn Địa chất 704 thì một số vùng như ở huyện Krông Pách, Lăk, Krông Buk và vùng phía Đông Buôn Ma Thuột… mực nước ngầm tiềm năng không còn nhiều như 10 năm trước. Ví dụ vùng Krông Pách, Lăk…năm 2004 có thể khai thác tối đa 0,4 – 0,6 triệu m3/ngày, thì nay còn chưa đầy 400 nghìn m3/ngày.

            Theo báo cáo khảo sát của Bộ Tài Nguyên Môi trường thì mực nước ngầm tại các khu vực như: huyện Krông Pách, Krông Búk, Lắk (tỉnh Đak Lak), Đắk Mil, Đắk Song, Cư Jút (tỉnh Đắk Nông), Chư Sê (tỉnh Gia Lai)… đang đứng trước tình trạng suy giảm nghiêm trọng, giảm từ 3 – 5m so với trước đây.

           Theo Đài Khí tưởng Thủy văn tại khu vực Tây Nguyên, tính đến hết ngày 23/09/2015, lượng mưa chỉ đạt từ 65 đến 75% so với trung bình nhiều năm. Cụ thể ở Kon Tum 64%; thành phố Pleiku tỉnh Gia Lai 75%; Buôn Ma Thuột tỉnh Đắk Lắk 61%. Lượng nước trên các sông ở khu vực này cũng chỉ đạt từ 60-70%. Đặc biệt, mùa mưa năm 2015 ở Đắk Lắk lượng mưa thấp hơn các năm, chỉ đạt 60-80%  và phân bố không đồng đều, có nơi chỉ đạt trên 40% so với cùng kỳ năm trước. Trong 770 hồ chứa trên địa bàn, chỉ mới có 250 hồ tích được 60-80% lượng nước, còn lại đều tích dưới 60% dung tích. Năm 2016, từ tháng 1 đến tháng 10 lượng mưa thấp, hạn hán kéo dài đã ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp nói chung và cà phê nói riêng.

          Ngoài yếu tố nhiệt độ có xu hướng tăng, nguồn nước giảm, diễn biến thời tiết ở Tây Nguyên đang ngày càng có xu thế cực đoan hơn. Thiên tai xảy ra thường xuyên; lũ lụt, lũ quét vào mùa mưa; hạn hán, nắng nóng vào mùa khô; các hiện tượng thời tiết cực đoan khác như dông, lốc xoáy, mưa đá xuất hiện ngày càng nhiều và bất thường hơn. Sự gia tăng biên độ nhiệt, ẩm ngày đêm, khiến một số nơi đang mất dần tính ổn định, tính uy luật về thời tiết khí hậu vốn có của vùng. Trong một vài tháng của mùa khô, hiện tượng nhiệt độ tăng cao, gây nắng nóng hơn bình thường đã xuất hiện ở một vài nơi. Sự phân bố mưa theo không gian và thời gian cũng có những dấu hiệu thay đổi. Trong đó, đáng lưu ý nhất là hiện tượng mưa lớn gia tăng khiến lũ quét xuất hiện nhiều hơn. BĐKH cũng được xem là tác nhân chính làm cho dòng chảy sông suối ở Tây Nguyên mất đi sự hiền hòa vốn có, thể hiện nhiều qua mức độ cạn kiệt nghiêm trọng trong mùa khô, và đỉnh lũ ngày càng nhọn hơn, cao hơn, cường suất lũ cao hơn trong mùa lũ.

3. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến sản xuất cà phê vùng Tây Nguyên

            Những năm gần đây, khí hậu Tây Nguyên đang có những dấu hiệu chịu tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu (BĐKH) toàn cầu. BĐKH đang làm cho các hiện tượng khí hậu và thời tiết ở Tây Nguyên diễn biến ngày càng phức tạp, những hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan gia tăng về mức độ tác động, qui mô ảnh hưởng và tần suất xuất hiện; thêm vào đó, các áp lực khác bao gồm sự suy giảm đa dạng sinh học, suy giảm nơi cư trú tự nhiên, ô nhiễm môi trường… càng làm gia tăng mức độ rủi ro và khả năng dễ bị tổn thương của con người trước tác động tiêu cực của BĐKH.

         BĐKH không chỉ là tăng nhiệt độ, tăng hàm lượng CO2, mà còn làm thay đổi quy luật thời tiết, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng sản phẩm của cà phê. Tác động của BĐKH gây ra nhiều hậu quả khác nhau. Mưa lũ xuất hiện nhiều làm tăng nguy cơ, mức độ rủi ro sản xuất cao hơn (xói mòn, rửa trôi đất, quả cà phê bị rụng, sâu bệnh hại phát triển….). Bên cạnh đó, những đợt hạn hán trầm trọng kéo dài cũng đe dọa ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, sản lượng  cà phê do tỷ lệ rụng quả tăng, trọng lượng nhân giảm.  Biến động của yếu tố nhiệt ẩm và các yếu tố khí hậu thời tiết khác cũng khiến sức đề kháng của cây cà phê giảm, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho các tác nhân gây bệnh phát triển bùng phát.

          Năm 1998, hiện tượng khô hạn xảy ra nghiêm trọng ở Tây Nguyên đã làm giảm năng suất cà phê so với năm 1997 và 1999 từ 20-30%; chất lượng cà phê nhân giảm, cụ thể tỷ lệ hạt trên sàng 16 giảm 45-50% so với các năm có lượng mưa bình thường. Ngoài ra trong năm 1998 do hạn nặng nên số lần tưới cho cà phê đã tăng lên trung bình từ 3 lần lên 5 lần, từ đó làm tăng chi phí và tăng khí phát thải nhà kính.

Năm 2009, 2010 nhiệt độ cao hơn các năm trước, nắng nóng kéo dài làm khô hạn rất nhiều nơi trên khu vực Tây Nguyên nói chung và Gia Lai nói riêng đã làm cho năng suất cà phê giảm khoảng 15 – 25 % so với các năm trước.

            Lượng mưa bình quân có xu hướng thay đổi, đặc biệt là từ tháng 4 – 7 giai đoạn cây cà phê cần nhiều nước để đáp ứng cho nhu cầu sinh trưởng cây và phát triển của quả cà phê, song gần đây vào các tháng này, lượng mưa có xu hướng thấp, tần suất mưa ít, gây thiếu nước, làm quả cà phê bị khô và rụng, hoặc nhân nhỏ, dẫn đến thiệt hại về năng suất và giảm chất lượng cà phê nhân. Năm 2015 lượng mưa bình quân năm chỉ bằng 60% so với bình quân nhiều năm và là năm có mức độ hạn khốc liệt nhất trong những năm trở lại đây. Do tác động của hiện tượng El Nino cũng đã làm cho kích cỡ hạt cà phê nhân giảm so với năm 2013 khoảng 30%, đặc biệt là ở vùng khô hạn nặng thì giảm đến 45%. Năm 2016, từ tháng 1 đến tháng 6, tình trạng khô hạn khốc liệt diễn ra trên diện rộng, đã ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm trên 100.000 ha cà phê; một số diện tích cà phê bị chết không thể khôi phục được.

            Sự thay đổi về thời tiết, nhất là phân bố mưa, lượng mưa ở Tây Nguyên trong vòng 10 năm trở lại đây là rất rõ. Tần suất xuất hiện mưa vào các tháng 12, 1 là khá phổ biến. Điều này đã làm cho các loại cây trồng như điều, cà phê gặp trở ngại trong quá trình thụ phấn thụ tinh. Vào những tháng cuối năm 2015, 2016 do có những cơn mưa nhỏ bất thường cũng đã làm cho hoa cà phê nở ở nhiều vùng như  Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng, một số nơi tỷ lệ hoa nở lên đến 20 %, gây khó khăn cho sản xuất cà phê của nông dân.

               Sự thay đổi về thời tiết có xu hướng nóng lên cũng làm cho sâu bệnh hại phát triển nhanh và khó dự báo. Rệp sáp hại cà phê đã thành dịch vào những năm 2000 – 2003, bệnh vàng lá do tuyến trùng và nấm đối với cà phê  (2000 – 2004), ve sầu hại rễ cà phê (2007 – 2009), bệnh chết nhanh, chết chậm cây tiêu (2005 – nay), đã làm thiệt hại đến năng suất và chất lượng sản phẩm đáng kể.

          Sự nóng lên do bức xạ nhiệt  tăng thì nhu cầu nước của cây cũng tăng lên, vì vậy yêu cầu về lượng nước tưới sẽ tăng trong bối cảnh nguồn tài nguyên nước ngày càng cạn kiệt sẽ là thách thức cho sản xuất nông nghiệp trong thời gian tới. Chí phí đầu tư để thu được 1 đơn vị sản phẩm tăng, đồng nghĩa với thu nhập giảm và đời sống của người nông dân càng khó khăn hơn.

            Tóm lại, BĐKH trước mắt đã gây ra nhiều tác động có hại đối với sản xuất cà phê. Thiên tai, đặc biệt là hạn hán, ngày càng xảy ra thường xuyên và nghiêm trọng hơn cả về cường độ và quy mô; quy luật phân bố mưa cũng bị thay đổi. Nguyên nhân của biến đối khí hậu rất phức tạp và đa dạng, bao gồm cả nguyên nhân do tự nhiên và nguyên nhân do con người. Vì vậy, để giảm thiểu tác hại của BĐKH cần phải có những giải pháp đồng bộ mang tính đa ngành, đa lĩnh vực để đối phó và thích ứng.

4. Các giải pháp sản xuất cà phê thích ứng với BĐKH

4.1. Giải pháp về quy hoạch

           Để đối phó với biến đổi khí hậu, hiện ngành nông nghiệp đang tích cực áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn kết hợp với quy hoạch tổng thể vùng sản xuất cà phê đảm bảo tính bền vững trong bối cảnh BĐKH. Cần quan tâm đến công tác quản lý quy hoạch một cách hiệu quả; gắn quy hoạch với vùng sản xuất nguyên liệu có truy nguyên nguồn gốc. Chuyển một số diện tích đất trồng cà phê ở các vùng có điều kiện khí hậu bất thuận, sản xuất không hiệu quả sang trồng các loại cây khác có hiệu quả hơn như sắn, khoai lang, khoai môn là những loại cây có khả năng thích ứng cao với sự BĐKH.

          Lồng ghép chiến lược ứng phó biến đổi khí hậu vào quy hoạch, kế hoạch phát triển nông nghiệp. Nâng cao chất lượng dự báo về biến đổi khí hậu và tác động đối với phát triển cây công nghiệp. Quy hoạch phát triển các cây công nghiệp chủ lực nói chung của từng địa phương phải dựa vào kịch bản dự báo biến đổi khí hậu, vùng sinh thái gắn với quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội và các cơ sở chế biến. Đổi mới cách tiếp cận xây dựng chiến lược, quy hoạch dựa trên kết quả đầu ra, hiệu quả của ngành sản xuất.

           Bảo vệ rừng, siết chặt công tác quản lý rừng, đầu tư trồng rừng cũng như các dự án trồng cây xanh, các biện pháp quản lý hệ thống thủy lợi và thoát lũ là vấn đề cần phải đặc biệt quan tâm trong thời gian tới. Rừng chính là “máy điều hòa khí hậu” khổng lồ. Các nhà khoa học cho biết: Tạm tính với diện tích 1.000.000 ha nếu chỉ 50% diện tích có rừng cây thân gỗ thì mỗi năm rừng ở dãy Trường sơn giữ được 22-25 triệu tấn CO2, góp phần đáng kể vào giảm hiệu ứng nóng lên toàn cầu mà không cần đầu tư gì ngoài bảo vệ rừng. Bảo tồn đa dạng sinh học, đặc biệt là đảm bảo an ninh môi trường sẽ là một chiến lược thích ứng lợi hại của Việt Nam nói chung và Tây Nguyên nói riêng trước tác động BĐKH, góp phần quan trọng trong việc tái tạo nguồn nước, điều hòa khí hậu giúp hạn chế tác hại của thời tiết, khí hậu đến sản xuất cà phê.

4.2. Giải pháp về kỹ thuật

4.2.1. Giải pháp về giống

4.2.1.1.  Bộ giống chín trung bình (tầm chín từ đầu tháng 11 đến giữa tháng 12)

Giống TR4

Sinh trưởng khỏe, phân cành nhiều, cành hơi rũ; năng suất thời kỳ kinh doanh đạt >7 tấn nhân/ha; hạt loại R1 chiếm >70%; khối lượng 100 nhân từ 17 – 18 g; tỷ lệ tươi/nhân 4,1- 4,2; kháng gỉ sắt cao; thời điểm chín giữa tháng 11 đến giữa tháng 12.

  • Giống TR5

Năng suất vào thời kỳ kinh doanh đạt 5- 6 tấn nhân/ha; kích cỡ hạt rất lớn, hạt loại R1chiếm trên 90%, khối lượng 100 nhân từ 20 – 21 g; tỷ lệ tươi/nhân 4,2 – 4,4; kháng cao đối với bệnh gỉ sắt; thời điểm chín vào đầu tháng 11 đến đầu tháng 12.

– Giống TR7

Năng suất thời kỳ kinh doanh đạt trên 4 tấn nhân/ha, năng suất ổn định và không cách năm, tán gọn, cành dự trữ nhiều; hạt loại R1chiếm  >70%; khối lượng 100 nhân từ   17 – 18 g; tỷ lệ tươi/nhân 4,3 – 4,4; thời điểm chín giữa tháng 11 đến giữa tháng 12.

Giống TR8

Sinh trưởng rất khỏe; cho năng suất vào thời kỳ kinh doanh đạt trên 4 tấn nhân/ha; hạt loại R1 chiếm >68%; khối lượng 100 nhân từ 17 – 18 g; tỷ lệ tươi/nhân  4,3 – 4,4; bị bệnh gỉ sắt nhẹ; thời điểm chín từ giữa tháng 11 đến giữa tháng 12.

Giống TR13

Năng suất vào thời kỳ kinh doanh đạt trên 5 tấn nhân/ha, hạt loại R1 chiếm > 90%; khối lượng 100 nhân từ 19 -20 g; tỷ lệ tươi/nhân: 4,2 – 4,4; kháng rất cao bệnh gỉ sắt; thời điểm chín tập trung vào giữa tháng 11 đến đầu tháng 12.

Bộ giống này ưu tiên trồng tại các vùng có đủ điều kiện nước tưới.

4.2.1.2.  Bộ giống chín trung bình – hơi muộn (chín từ giữa tháng 11 đến cuối tháng 12)

 Giống TR9

Cành cơ bản nhiều, lóng đốt nhặt; năng suất 5 – 6 tấn nhân/ha; hạt loại R1chiếm từ 95- 98%; trọng lượng 100 nhân 24 – 25 g, tỷ lệ tươi/nhân 4,2 – 4,3; kháng gỉ sắt cao; thời điểm chín tập trung trong tháng 12.

Giống TR11

Cành to, khỏe, tán khá rộng, lóng đốt hơi thưa; năng suất 5 – 6 tấn nhân/ha; hạt loại R1 chiếm 77,2%; khối lượng 100 nhân 18,5 g; tỷ lệ tươi/nhân thấp 4,1 – 4,2; kháng gỉ sắt cao, hoàn toàn chưa bị bệnh; thời điểm chín tập trung trong tháng 12.

Giống TR12

Cành cơ bản nhiều, lóng đốt nhặt; năng suất trung bình 5 tấn nhân/ha, khối lượng 100 nhân trung bình 25 g, hạt loại R1 đạt 98%, tỷ lệ tươi/nhân 4,3; kháng cao với bệnh gỉ sắt. Thời gian thu hoạch hàng năm từ cuối tháng 11 đến cuối tháng 12.

Bộ giống này ưu tiên trồng tại các vùng có đủ điều kiện nước tưới.

4.2.1.3. Bộ giống chín muộn (tầm chín từ đầu tháng 1 đến đầu tháng 2 năm sau)

Giống TR6  

Cành khỏe, ít phân cành; năng suất vào thời kỳ kinh doanh đạt 5 – 6 tấn nhân/ha; hạt loại R1 chiếm > 75%; khối lượng 100 nhân 17,5 g; tỷ lệ tươi/nhân thấp 4,1 – 4,2; kháng gỉ sắt cao; thời điểm chín từ  giữa tháng 12 đến giữa tháng 1 năm sau.

Bên cạnh các giống cà phê vối đã được công nhận ở những giai đoạn trước thì giai đoạn 2011 – 2015 đã chọn tạo được hai giống cà phê TR14 và TR15 với các đặc điểm vượt trội (đã được công nhận sản xuất thử năm 2016): năng suất trung bình của các dòng từ 4,97 – 5,48 tấn nhân/ha, cao hơn có ý nghĩa so với dòng đối chứng TR6, khối lượng 100 nhân: 18,6 – 23,0g, tỷ lệ hạt trên sàng 16 đạt 92,6 – 97,4%, kháng cao với bệnh gỉ sắt. Đặc biệt đây là hai giống có thời điểm chín muộn vào thời điểm gần giữa mùa khô nên ít bị ảnh hưởng của các đợt mưa muộn.

Bộ giống này ưu tiên trồng ở vùng có điều kiện khó khăn về nguồn nước tưới.

4.2.1.4. Giống cà phê vối lai TRS1

Giống cà phê vối lai TRS1 được tạo ra từ 4 dòng vô tính TR4, TR9, TR11, TR12 bằng phương pháp lai tổng hợp có kiểm soát.

Giống cà phê vối lai TRS1 có đặc tính nhân giống bằng hạt. Đây là giống cho năng suất cao, chất lượng hạt tốt không thua kém so với các giống chọn lọc bằng con đường vô tính. Năng suất trung bình trên 5 tấn/ha, khối lượng 100 nhân trung bình 20,1 g, tỷ lệ tươi/nhân 4,1. Tỷ lệ cây bị nhiễm bệnh gỉ sắt < 10%.

 

4.2.2. Giải pháp trồng xen, đa dạng hóa sản phẩm thu hoạch trên vườn cà phê

         Ngoài việc khuyến cáo trồng cây che bóng lâu dài trong vườn cà phê, WASI đã nghiên cứu các giải pháp trồng xen các loại cây ăn quả trong vườn cà phê vừa có tác dụng làm cây che bóng, vừa tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích, góp phần đa dạng hóa sản phẩm và giảm thiểu rủi ro trong sản xuất độc canh cà phê.

         Trồng xen cây sầu riêng trong vườn cà phê đã làm tăng thêm thu nhập cho nông dân từ 40 – 80 %; trồng xen cây bơ trong vườn cà phê thu nhập tăng từ 50 – 90 %; trồng tiêu bám trên cây trụ sống trồng làm cây che bóng trong vườn cà phê như muồng đen, keo dậu Cuba thu nhập tăng từ 40 – 120 %. Ngoài ra, việc trồng xen đã làm cho năng suất vườn cà phê ổn định, chu kỳ tưới nước cho cà phê kéo dài hơn do cây che bóng làm hạn chế được quá trình bốc thoát hơi nước; năng suất vườn cà phê ổn định. Ngoài ra, trồng xen trong vườn cà phê đã làm tăng hiệu quả sử dụng nước 17,7 %; để sản xuất 1 tấn cà phê chỉ cần 500 m3 nước, trong khi đó vườn cà phê trồng thuần cần tới 600 m3 nước.

           Đây là giải pháp kỹ thuật góp phần sản xuất cà phê bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Bảng 2. Trồng xen trong vườn cà phê góp phần tăng hiệu quả kinh tế

Loại hình canh tác

Năng suất, tấn/ha

Doanh thu,

tr. đồng

Lợi nhuận,

tr. đồng

Tăng so với trồng thuần, %

1. Trồng thuần cà phê

4,2

168

102

2. Trồng xen cây sầu riêng trên vườn cà phê (90 cây/ha)

 

 

 

 

– Năng suất cà phê

3,2

128

67

 

– Năng suất sầu riêng

3,5

105

87

 

Tổng

 

233

154

50,9

3. Trồng xen cây bơ trên vườn cà phê (92 cây/ha)

 

 

 

 

– Năng suất cà phê

3,0

120

62

 

– Năng suất bơ

3,9

117

94

 

Tổng

 

237

156

52,9

4. Trồng xen tiêu trên vườn cà phê (370 trụ/ha)

 

 

 

 

– Năng suất cà phê

2,9

116

60

 

– Năng suất hồ tiêu

1,2

180

123

 

Tổng

 

296

183

79,4

            Đầu tư xây dựng hệ thống các trạm thời tiết chuyên dụng, góp phần xây dựng nền nông nghiệp thông minh thích ứng với BĐKH; xây dựng hệ thống trạm quan trắc, cảnh báo thời tiết, môi trường, sâu bệnh thông minh cho từng tiểu vùng sinh thái Tây Nguyên; ứng dụng công nghệ truyền thông đa phương tiện, chuyển tải các thông tin thời tiết nông vụ, khuyến nông, kỹ thuật chăm sóc cà phê, khuyến cáo tưới nước tiết kiệm giúp nông dân chủ động ứng phó với các điều kiện bất lợi của BĐKH.

            Tăng cường nguồn kinh phí khuyến nông để xây dựng nhiều mô hình ứng dụng các giải pháp kỹ thuật canh tác cà phê thích ứng với BĐKH; kinh phí phục vụ tuyên truyền nâng cao nhận thức tác động của BĐKH đối với sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất cà phê giúp nông dân từng bước thay đổi hành vi trong quá trình sản xuất trước những thay đổi của điều kiện khí hậu, thời tiết bất thuận có thể xảy ra ở bất kỳ ở đâu và thời điểm nào./.

Tài liệu tham khảo

  1. Nguyễn Khắc Hiếu. Tổng quan về các kịch bản biến đổi khí hậu toàn cầu và kết quả Hội nghị Liên Hợp Quốc về BĐKH ở Bali.Báo cáo tại Hội thảo BĐKH toàn cầu và ứng phó của Việt Nam. Hà Nội 26-29/2/2008.
  2. Nguyễn Đình Hoè, Nguyễn Ngọc Sinh. Biến đổi khí hậu và an ninh quốcgia. Báo cáo tại hội thảo “Biến đổi khí hậu toàn cầu và ứng phó của Việt Nam”, Hà Nội 26-29/2/2008
  3. Nguyễn Đình Hòe, Đặng Đình Long. Nguy cơ thiếu hụt tài nguyên nước cho phát triển bền vững Bà Rịa- Vũng Tàu. Tạp chí KH&CN Bà Rịa- Vũng Tàu số 1/2008
  4. Trường Hồng và CTV, 2013. ICM cho cà phê vối kinh doanh
  5. Trương Hồng và CTV, 2016. Cây che bóng và cây trồng xen trong vườn cà phê.
  6. Kỷ yếu 40 năm thành lập Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên, 4/2016.
  7. Nguyễn Đức Ngữ. Biến đổi khí hậu và khô hạn, hoang mạc hóa. Báo cáo tại Hội thảo BĐKH toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam, Hà Nội, 26-29/2/2008
  8. Thông báo đầu tiên của Việt Nam cho Công ước Khung của Liên hiệp quốc về Biến đổi khí hậu. Hà Nội 2003.
  9. Anonymous. 2005. Global warming and Vietnam
  10. Adaptation to climate change: Theory and Assessment, Cambridge University Press.
  11. Climate Change: 2001 IPCC Synthesis Report.
  12. IPCC, 2007. The 4th assessement report of the Intergovernmental Panel on Climate Change.
  13. Ministry of Agriculture and Rural Development of Vietnam. 2002. United Nations Convention to combat desertification. Vietnam Action Programme to combat desertification.