(Thông tin từ V’ORI, VICOFA)
Sau hơn ba mươi năm phát triển, ngành cà phê Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng như biến đổi khí hậu; cạnh tranh từ các loại cây trồng khác; cần tái canh những cây cà phê già cỗi; chi phí sản xuất đang tăng cao hơn trong khi giá cà phê thế giới đang ở mức rất thấp. Do cạnh tranh khốc liệt, chính sách sản xuất cà phê của Việt Nam đã chuyển sang một kỷ nguyên mới với hai mục tiêu: thứ nhất là duy trì vị thế là nhà sản xuất và xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới; thứ hai, để tăng gấp đôi giá trị gia tăng trong sản xuất cà phê bằng cách tăng năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng.
Bài viết này cung cấp một cái nhìn tổng quan về ngành cà phê Việt Nam được rút gọn từ Country Coffee Profile Vietnam – 2019; Đây là một báo cáo mang tính nền tảng được thực hiện dưới sự phối hợp giữa VICOFA (Hiệp Hội Cà Phê – Ca Cao Việt Nam) và ICO (International Coffee Organization). Country Coffee Profile Vietnam đáp ứng Thỏa thuận Cà phê Quốc tế 2007 giữa ICO và các nước tham gia, cụ thể là thu thập và xuất bản phổ biến các thông tin kinh tế, kỹ thuật và khoa học, thống kê và nghiên cứu, cũng như các vấn đề khác liên quan đến cà phê.
Ngành cà phê sau hơn một thế kỷ
Lịch sử cà phê Việt Nam bắt đầu bởi người Pháp từ năm 1857, tính đến nay việc trồng cà phê đã cố thủ trong văn hóa Việt Nam hơn một thế kỷ. Được tăng cường bởi sự hỗ trợ từ chính phủ, sản xuất cà phê Việt Nam đã tăng từ mức rất thấp vào đầu những năm 1990 (lúc này cả nước chỉ có vỏn vẹn 5900 ha cà phê), đến nay diện tích cà phê của cả nước đã lên tới nửa triệu hecta với sản lượng hàng năm lên hơn 25 triệu bao vào năm 2010 và duy trì liên tục đến nay, đưa Việt Nam trở thành nước sản xuất lớn thứ hai trên thế giới.
Hai loại cà phê chính (Robusta và Arabica) đều được đưa vào sản xuất, Trong khi Robusta chiếm 92,9% tổng diện tích trồng cà phê (và chiếm 97% tổng sản lượng), thì các giống Arabica chỉ chịu trách nhiệm cho một vài phần trăm còn lại. Tổng diện tích bao phủ bởi canh tác cà phê ước tính khoảng 600.000 ha, với các tỉnh trồng cà phê chính nằm ở Tây Nguyên, bao gồm Đắk Lắk (190.000 ha), Lâm Đồng (162.000 ha), Đắk Nông (135.000 ha), Gia Lai (82.000 ha) và Kon Tum (13.500 ha).
Trong khi khối lượng xuất khẩu tăng đáng kể qua niên vụ của từng năm thì nhưng sự gia tăng giá trị thu được là rất khiêm tốn so với năm trước đó – Đây là một trong những vấn đề lớn nhất của ngành cà phê Việt Nam.
Cần lưu ý rằng, hiện nay chính phủ đã thực hiện các biện pháp để ổn định các khu vực sản xuất cà phê ở mức tối đa 600.000 ha và những nỗ lực hiện đang hướng tới việc cải thiện chất lượng của hạt cà phê cao cấp. Một đặc điểm quan trọng khác của việc trồng cà phê ở Việt Nam là năng suất trung bình vượt quá 2,3 tấn/ ha, một trong những mức cao nhất trên thế giới.
Giống loài & Nguồn gốc
Trong tiếng việt cây cà phê vối tức Robusta (Coffea Canephora) đã có một chỗ đứng lâu đời – bên cạnh các người anh em của nó, như cà phê chè (Arabica) hay cà phê mít (Excelsa). Phần lớn các giống Robusta hiện được trồng ở Việt Nam có nguồn gốc từ đảo Java của Indonesia. Tuy nhiên, Việt Nam hiện đang trồng hai giống Robusta chính. Đầu tiên, giống Robusta nguyên bản (Original Robusta) có kích thước nhỏ và chất lượng cao được trồng ở một số vùng – nơi người Pháp lần đầu mang cà phê đến Việt Nam, nhưng diện tích hạn chế do năng suất thấp và khả năng kháng sâu bệnh yếu. Loại thứ hai là những giống giống năng suất cao (high-yield varieties) được lai tạo sau này.
Từ đầu những năm 1990, khi cà phê được trồng rộng rãi ở các tỉnh Tây Nguyên, nhiều viện nghiên cứu cây giống nông nghiệp, đặc biệt là Viện Khoa học Nông lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI), đã nghiên cứu lai tạo nhiều giống Robusta khác nhau. Quá trình lai tạo chọn lọc đã cho ra hàng chục giống Robusta mới, khác nhau về sức tăng trưởng, khả năng thích ứng với đất và khí hậu, khả năng kháng sâu bệnh, với năng suất cao hơn (3,5 tấn mỗi ha trở lên). Các giống lai và giống chín muộn điển hình này đã được các nhà nghiên cứu Việt Nam đặt tên thế hệ từ TR4, TR5, TR6, TR7, TR8, TR9, TR11, TR12, TR13, TR14, TR15 và TRS1.
Ba trong số những dòng vô tính trên được nông dân ưa chuộng và trồng rộng rãi nhất trong những năm gần đây là các thế hệ TR14 và TR15 – thích nghi rất tốt với những thay đổi của khí hậu và TRS1 – ứng phó tốt với nhu cầu đáp ứng nhanh chóng với các chương trình tái canh
Phần lớn diện tích cà phê Việt Nam thuộc giống Robusta, có giá thấp hơn Arabica cao cấp là một yếu tố hạn chế giá trị xuất khẩu.
Nói về cà phê Arabica (Coffea Arabica), vào đầu thế kỷ 20, khi mà cả nước mới bước đầu thử nghiệm canh tác cả ba giống cà phê chè, vối và mít, giống cà phê chè – Arabica Typica đã được trồng thử nghiệm tuy nhiên không phù hợp vì dễ mắc sâu bệnh. Cho đến những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ 20, gần như toàn bộ (99%) cà phê Arabica được trồng ở Việt Nam đã được thay thế bởi giống Catimor, một giống lai chéo giữa Timor (là cây đột biến tự nhiên của Robusta) và Caturra (thuộc giống Arabica).
Tuy nhiên, song song với các giống Robusta, trong hai mươi năm qua, các nhà nghiên cứu cà phê Việt Nam cũng đã lai tạo và ghép để đưa vào sản xuất nhiều giống Arabica mới có tên bắt đầu bằng THA… hoặc TN…, có thể thích nghi với đất và khí hậu, có năng suất cao và tăng sức đề kháng với sâu bệnh.
Phân vùng và canh tác
Cà phê Việt Nam được trồng ở các vùng có độ cao từ 500 đến 1.200 mét so với mực nước biển, do đó hương vị cà phê có chất vị ngọt ngào (sweet smell). Điều này đã được công nhận tại Cuộc thi Rang xay Cà phê Quốc tế lần thứ nhất được tổ chức tại Paris vào năm 2015 bởi Cơ quan bình ổn hóa nông sản* và Hiệp hội gia tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp** ; Tại đây công ty liên doanh SOBICA của Việt Nam được trao Huy chương Bạc cho sản phẩm cà phê AROMA (hỗn hợp ba loại cà phê Arabica tốt nhất Việt Nam) và Huy chương Đồng cho sản phẩm cà phê thâm canh (hỗn hợp Arabica Bourbon từ Cầu Đạt – Đà Lạt và Robusta từ Buôn Ma Thuột).
Với định hướng hạn chế mở rộng canh tác hàng loạt đồng thời tăng chất lượng cũng như doanh thu từ sản xuất cà phê. Chính phủ đã vạch ra một kế hoạch tổng thể rà soát và phân vùng lại các vùng cà phê trên toàn quốc, thay thế cây cà phê cũ bằng giống mới hoặc tạo điều kiện chuyển đổi sang cây trồng khác ở các vùng không phù hợp để trồng cà phê. Theo đó, Robusta tiếp tục phát triển ở bốn tỉnh thuộc Tây Nguyên: Đăk Lăk, Lâm Đồng, Đăk Nông và Gia Lai với tổng diện tích 530.000 ha, còn lại là khoảng 70.000 ha ở các tỉnh khác. Cây Arabica đã được định hướng mở rộng ở Sơn La (Tây Bắc), Nghệ An, Quảng Trị (miền Trung), Lâm Đồng (Tây Nguyên) và một số khu vực khác tại miền trung.
Hệ thống sản xuất
Đối với canh tác cà phê Việt Nam, có những trang trại chuyên biệt, chỉ độc canh cây cà phê và trang trại hợp canh – với nhiều hơn một sản phẩm nông nghiệp. Trong đó, tồn tại hai loại trang trại hợp canh chính. Đầu tiên là các trang trại nơi các loại cây trồng khác nhau chia sẻ hoặc cùng nằm trong cùng một khu đất. Đây được gọi là một hệ thống canh tác đồng bộ, nói cách khác có nghĩa là trồng xen cây cà phê với các loại cây khác. Loại thứ hai là nơi các loại cây trồng khác nhau được trồng trong các mảnh đất riêng biệt. Đây được gọi là một hệ thống canh tác tách biệt.
Thu hoạch cà phê truyền thống bằng cách tước cả quả xanh và quả chín (khu vực Tây Nguyên) cũng được công nhận là một trong những lý do làm giảm chất lượng cà phê Việt Nam.
Mật độ cho cà phê Arabica phổ biến trong môi trường canh tác nước ta thay đổi từ 2.660 đến 6.660 cây mỗi ha, tùy thuộc vào giống, tính chất đất và độ dốc của những ngọn đồi đang phát triển. Đối với cà phê Robusta, mật độ khoảng 1.330 cây mỗi ha. Việc trồng trọt thường bắt đầu trong mùa mưa, mặc dù có thể chấm dứt vào cuối mùa mưa, nhưng vẫn cần cung cấp đủ nước và đảm bảo che nắng, chắn gió sau đó. Với mục đích che bóng cây và đảm bảo thu nhập ổn định cho người trồng cà phê, sau một thời gian trồng thử nghiệm, Bộ NN & PTNT đã giới thiệu một số kỹ thuật trồng xen với các cây trồng khác, như hồ tiêu, bơ, sầu riêng và macadamia trong vườn cà phê.
Những cây cho bóng mát này không chỉ giúp đa dạng hóa sản phẩm, tạo thêm việc làm, cũng như tăng thu nhập cho nông dân, mà còn có vai trò che nắng, chắn gió, hạn chế bốc hơi và giữ ẩm để góp phần phát triển cà phê bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Cho đến nay, hơn 100.000 ha trang trại đa dạng như vậy đã được phát triển ở Việt Nam, chủ yếu ở Tây Nguyên.
Bên cạnh việc mở rộng diện tích canh tác, về thực hành canh tác cà phê để phát triển bền vững, nhiều nông dân trồng cà phê Việt Nam đã và đang áp dụng công nghệ sản xuất nông nghiệp tiên tiến để đạt được các chứng nhận phổ biến, như 4C (Common Code for the Coffee Community); VietGAP (Thực hành nông nghiệp tốt của Việt Nam); UTZ (Certified Certified); và RFA (Liên minh rừng nhiệt đới). Tính đến cuối năm 2017, hơn 200.000ha, chiếm hơn 30% tổng diện tích trồng cà phê của Việt Nam, được chứng nhận bởi các sáng kiến phát triển bền vững.
Theo Reuters, trong khi hầu hết các loại đậu Robusta 4C đến từ Việt Nam, thì hạt Arabica 4C chủ yếu có nguồn gốc từ Brazil hoặc Columbia.
Thu hoạch và kỹ thuật chế biến
Mùa cà phê bắt đầu vào tháng 10, đánh dấu sự kết thúc của mùa mưa và bắt đầu mùa khô ở miền Nam nước ta. Cách thu hoạch chọn lọc, tức lựa chọn những quả cà phê chín cây và để lại những quả chưa chín thực sự không phổ biến ở Việt Nam, hầu hết các khu vực canh tác cà phê thường thu hái bằng cách tước cả quả chín lẫn quả xanh từ cây.
Kỹ thuật chế biến phổ biến nhất tại nước ta vẫn là phương pháp phơi khô tự nhiên sau thu hoạch. Theo phương pháp này, cà phê được sấy khô dưới ánh sáng mặt trời hoặc trong máy sấy cơ học. Hiện tại, gần 80% chế biến sau thu hoạch là bằng ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, nông dân, nhà sản xuất và thương nhân cà phê ở khu vực Tây Nguyên hiện đang ngày càng sử dụng máy móc để sấy khô quả cà phê. Thời gian sấy là khoảng 12 đến 16 giờ mỗi mẻ và độ ẩm giảm 10% -12%. Nguyên liệu chính được sử dụng làm nhiên liệu cho máy sấy là vỏ cà phê khô hoặc than.
Cơ sở hạ tầng chế biến (tại các khu vực giàu tiềm năng cho cà phê như Dak Lak và Lâm Đồng) và không gian lưu trữ tiêu chuẩn cho hạt cà phê sau khi chế biến vẫn còn thiếu về số lượng. Do đó, chứng nhận chất lượng rất khó đạt được.
Trong khi đó, các nhà sản xuất cà phê quy mô lớn chủ yếu sử dụng công nghệ chế biến ướt. Đây là công nghệ xử lý phổ biến hiện nay và được áp dụng ở nhiều quốc gia khác trên thế giới. Có hàng trăm nhà máy trên cả nước với công nghệ chế biến bằng phương pháp ướt hoặc khô, chủ yếu được đặt tại khu vực Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Công suất thiết kế trong khoảng 1,5 triệu tấn một năm – đủ để đáp ứng nhu cầu chế biến cà phê xanh trong cả nước. Điển hình, tại tỉnh Đăk Lăk, 16 nhà máy chế biến ướt đã được thiết lập với tổng công suất hàng năm trên 64.000 tấn sản phẩm.
Hiện trạng và triển vọng của ngành cà phê Việt Nam
Trong nhiều thập kỷ qua, sản xuất cà phê Việt Nam đã phát triển như một ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu. Với vị thế là nhà sản xuất và xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới. Tuy nhiên, cà phê Việt Nam hiện đang phải đối mặt với không ích vấn đề trong đó những thách thức khách quan lẫn chủ quan:
Biến đổi khí hậu với trình trạng thời tiết cực đoạn đặt các vùng trồng cà phê vào vùng nguy hiểm. Theo Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT), nhiệt độ tăng và lượng mưa thay đổi có thể khiến Việt Nam mất 50% diện tích sản xuất cà phê Robusta hiện tại vào năm 2050.
Nếu không được cải tạo trong vài năm tới, cây già sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và chất lượng cà phê tại Việt Nam.
Khoảng 50% tổng số cây cà phê được trồng ở Việt Nam là từ 10 đến 15 tuổi, đây là nhóm cây cho năng suất cao nhất. Trong những năm tới, sản xuất cà phê Việt Nam sẽ chủ yếu dựa vào nhóm này. Đối với phần còn lại, gần 30% cây là từ 15 đến 20 tuổi và khoảng 20% trên 20 tuổi – không thể đảm bảo năng suất.
Một số vấn đề chủ quan
Diện tích cây cà phê mới trồng đã tăng đáng kể trong thời gian gần đây, nhưng hầu hết không nằm trong khu vực quy hoạch, chủ yếu nằm ở khu vực không phù hợp, với đất nông, dốc cao, thiếu nước tưới, v.v. Do đó, mặc dù diện tích trồng mới đã tăng lên nhưng việc đạt được hiệu quả kinh tế cao là khó khăn vì năng suất thấp và chi phí sản xuất cao
Các biện pháp canh tác thâm canh được sử dụng trong quá khứ đã sử dụng quá nhiều đầu vào (phân bón, tưới tiêu, v.v.) để đạt được năng suất tối đa. Cây cà phê không chỉ nhanh chóng cạn kiệt và mất khả năng sản xuất, mà những thực hành như vậy còn dẫn đến đất bị ô nhiễm nghiêm trọng, dẫn đến nhiều bệnh và sâu bệnh, đặc biệt là nấm và tuyến trùng rễ
Hình thức sản xuất, quy mô nhỏ, phân tán và tính độc lập của các hộ nông dân đã dẫn đến một sản xuất chất lượng thấp và không ổn định. Sự khác biệt của đầu tư, thu hoạch, và chế biến giữa các nhà sản xuất đã ảnh hưởng đến chất lượng của toàn bộ ngành cà phê Việt Nam.
Những hạn chế về môi trường dự kiến sẽ làm giảm đáng kể vùng đất thích hợp cho cây cà phê, vì nhiệt độ trung bình tăng và mùa khô trở nên dài hơn và nóng hơn, làm giảm lượng nước.
Mặc dù cà phê là một loại cây cần nhiều nước, nhưng tưới truyền thống nhưng lỗi thời vẫn là phương pháp chính được sử dụng ở hầu hết các vùng trồng cà phê, gây mất nước nghiêm trọng. Ở nhiều địa phương, việc khoan giếng để tưới tiêu đã dẫn đến việc phá hủy tài nguyên nước ngầm và ô nhiễm đất, gây lãng phí và không hiệu quả.
Triển vọng và hoạch định
Để đối phó với những thách thức này, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam đã đưa ra những cải cách dài hạn của ngành công nghiệp đất nước. Năm 2014, Chính phủ đã vạch ra kế hoạch phát triển cà phê bền vững đến năm 2020 và Tầm nhìn đến năm 2030, một chương trình nghị sự tổng thể nhằm quản lý bền vững các nguồn lực kinh tế và môi trường cho ngành cà phê, tăng thu nhập xuất khẩu và đảm bảo sản xuất ổn định.
Kế hoạch này bao gồm các mục tiêu kinh tế cụ thể cho hiệu suất của ngành, như tăng cường xử lý chuyên sâu cho giá trị gia tăng để đạt doanh thu xuất khẩu 6 tỷ USD trong thập kỷ tới. Đồng thời đặt ra các mục tiêu môi trường cụ thể, bao gồm giới hạn canh tác cà phê trên toàn quốc ở mức 600.000 ha, thay thế cây cà phê năng suất thấp cũ bằng các giống mới cho năng suất cao hơn và có khả năng kháng sâu bệnh tốt hơn, phân vùng lại cà phê và tiết kiệm nước phương pháp tưới, cũng như thiết lập các tiêu chuẩn an toàn và môi trường mới cho phân bón và thuốc trừ sâu.
Có thể nói, ngành công nghiệp cà phê Việt Nam đã buộc phải nhìn về tương lai để giải quyết lỗ hổng về môi trường và kinh tế. Những mục tiêu này là một dấu hiệu cho thấy Việt Nam hy vọng sẽ duy trì vị thế là một cường quốc cà phê, đảm bảo điều kiện sản xuất ổn định cho tương lai
Nguồn:
http://vori.vn/che-bien-ca-phe-nghien-cuu-khoa-hoc-nguon-goc-giong-loai-san-xuat-thuong-mai.html