Nghiên cứu một số biện pháp xử lý tuyến trùng cho cây cà phê vối trong giai đoạn vườn ươm

Lê Văn Bốn, Đinh Thị Tiếu Oanh, Nguyễn Thị Thanh Mai,

Nguyễn Đình Thoảng và cộng sự,

Bộ môn Cây Công nghiệp

 1.Đặt vấn đề

Trong những năm gần đây, việc tái canh cây cà phê đang phải đối mặt với bệnh vàng lá thối rễ do tuyến trùng và nấm gây ra. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tái canh thành công và thất bại, trong đó cây giống là một trong những yếu tố quan trọng, việc sử dụng cây giống sạch bệnh trong tái canh sẽ mang lại hiệu quả cao và sẽ hạn chế được sự lây lan nguồn bệnh ra ngoài đồng ruộng.

Xuất phát từ thực tế sản xuất, chúng tôi tiến hành thí nghiệm “Nghiên cứu một số biện pháp xử lý tuyến trùng cho cây cà phê trong giai đoạn vườn ươm” với mục tiêu giúp cây giống sinh trưởng khỏe, không bị nhiễm tuyến trùng gây hại, góp phần cho công tác tái canh cà phê thành công.

2.Vật liệu, địa điểm, thời gian, nội dung và phương pháp nghiên cứu

2.1. Vật liệu

– Đất đỏ bazan lấy ở tầng đất mặt, có tuyến trùng với mật độ cao.

– Các loại phân vi sinh vật và thuốc bảo vệ thực vật, bao gồm:

+ Điền Trang-NEMA: là phân vi sinh vật, thành phần gồm Trichoderma spp. (1 x 108 cfu/g); Paecilomyces spp. (1 x 108 cfu/g).

+ Tervigo 020 SC: là thuốc trừ tuyến trùng sinh học, hoạt chất Abamectin.

+ Vimoca 20 EC: là thuốc trừ tuyến trùng hóa học, hoạt chất Ethoprophos.

Đất được trộn phân chuồng hoai mục với tỷ lệ 3:1, bổ sung supe lân 15 kg/m3 hỗn hợp trước khi xử lý đất.

            + Cây giống: cà phê vối lai TRS1

 2.2. Địa điểm và thời gian thực hiện

            Thí nghiệm được thực hiện tại Khu vườn ươm của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên. Thời gian thực hiện từ tháng 2/2015 đến tháng 7/2017.

2.3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu

            * Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu các biện pháp xử lý đất phòng trừ tuyến trùng cho cây cà phê vối trong vườn ươm (chưa được xử lý đất trước khi đóng bầu ươm cây).

            * Phương pháp nghiên cứu: Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên (CRD), gồm 4 công thức, 3 lần lặp lại, mỗi ô cơ sở bố trí 200 bầu cây, tổng số cây thí nghiệm là 2.400 bầu cây.

            Các công thức gồm:

+ CT1: Điền Trang-NEMA (nồng độ 0,25 %)

            + CT2: Tervigo 020 SC (nồng độ 0,3 %)

            + CT3: Vimoca 20 EC (nồng độ 0,15 %)

            + CT4: Đối chứng (không xử lý)

            * Phương pháp xử lý:

            + CT1: Pha phân vi sinh vật Điền Trang-NEMA với nồng độ 0,25 %, phun đều lên bầu cây, định kỳ 1 tháng/lần (phun 4 lần).

            + CT2: Pha Tervigo 020 SC với nồng độ 0,3%, phun đều lên bầu cây, định kỳ 2 tháng/lần (phun 2 lần).

            + CT3: Pha thuốc Vimoca 20 EC với nồng độ 0,15% phun đều lên bầu cây, định kỳ 2 tháng/lần (phun 2 lần).

            * Thời điểm xử lý: lần đầu sau khi cắm cây cà phê vối lá sò được 1,5 tháng

            – Các chỉ tiêu theo dõi:

            + Thành phần, mật độ tuyến trùng trong bầu đất trước khi đóng bầu.

+ Thành phần, mật độ tuyến trùng trong đất và rễ của cây con sau 2, 4 và 6 tháng.

   + Sinh trưởng của cây con sau 2, 4 và 6 tháng.

   + Tỷ lệ cây chết, tỷ lệ cây đủ tiêu chuẩn xuất vườn (%).

3.Kết quả và thảo luận

Kết quả phân tích tuyến trùng trong đất tại thời điểm trước khi vào bầu cho thấy tổng mật độ tuyến trùng trong đất là 140 con/100 g đất. Trong đó mật độ tuyến trùng Pratylenchus spp. là 106 con/100 g đất, mật độ tuyến trùng Meloidogyne spp. là 34 con/100 g đất. Với mật độ tuyến trùng trên 100 con/100 g đất nếu không được xử lý sẽ ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng và của cây giống trong vườn ươm, cũng như sau khi trồng.

              Bảng 1. Mật độ tuyến trùng trong đất trước khi đóng bầu

TT

Thành phần tuyến trùng

Mật độ tuyến trùng trong đất (con/100 g đất)

1

Pratylenchus spp.

106

2

Meloidogyne spp.

34

   Theo dõi diễn biến mật độ tuyến trùng trong đất và rễ của cây con sau 2, 4, 6 tháng  được trình bày trong bảng 2, 3 và 4.

            Bảng 2. Mật độ tuyến trùng trong đất và rễ sau khi cắm cây 2 tháng

TT

Công thức

Mật độ tuyến trùng trong đất

(con/100 g đất)

Mật độ tuyến trùng trong rễ

(con/5 g rễ)

Pra.

Mel.

Pra.

Mel.

1

Điền Trang-NEMA

5

2

0

0

2

Tervigo 020 SC

4

0

0

0

3

Vimoca 20 EC

0

0

0

0

4

Đối chứng

17

15

3

4

Tại thời điểm sau khi cắm cây 2 tháng, sau khi xử lý thuốc đợt 1 được 15 ngày cho thấy, mật độ tuyến trùng của các công thức xử lý đã giảm rõ rệt so với công thức đối chứng, trong đó công thức xử lý Vimoca 20 EC không xuất hiện tuyến trùng. Hai công thức xử lý Điền Trang-NEMA và Tervigo 020 SC đều có mật độ tuyến trùng trong đất thấp, tương ứng là 7 con và 4 con/100 g đất, trong khi tổng mật độ tuyến trùng trong đất của công thức đối chứng là 32 con/100 g đất. Tại thời điểm này, ở công thức đối chứng, tuyến trùng Pratylenchus spp.Meloidogyne spp. đã xâm nhập và ký sinh trong rễ với tổng mật số 7 con/5 g rễ, trong khi các công thức có xử lý thuốc, sự xâm nhập và ký sinh của tuyến trùng vào trong rễ đã được hạn chế khá tốt.

                   Bảng 3. Mật độ tuyến trùng trong đất và rễ sau khi cắm cây 4 tháng

TT

Công thức

Mật độ tuyến trùng trong đất                         (con/100 g đất)

Mật độ tuyến trùng trong rễ                   (con/5 g rễ)

Pra.

Mel.

Pra.

Mel.

1

Điền Trang-NEMA

0

0

0

0

2

Tervigo 020 SC

0

0

0

0

3

Vimoca 20 EC

0

0

0

0

4

Đối chứng

15

40

22

30

            Thời điểm sau khi cắm cây 4 tháng, tất cả các công thức xử lý thuốc không thấy sự xuất hiện của tuyến trùng trong cả đất và rễ. Đối với công thức không xử lý thuốc, mật độ tuyến trùng vẫn duy trì ở mức cao, tuyến trùng xâm nhập vào trong rễ nhiều hơn, với tổng số 55 con/ 5 g rễ, điều này cho thấy các công thức xử lý thuốc đã kiểm soát tốt tuyến trùng.

            Sau khi cắm cây 6 tháng, mật độ tuyến trùng trong đất và rễ của các công thức xử lý thuốc Vimoca 20 EC và Tervigo 020 SC không thấy sự xuất hiện của tuyến trùng trong cả đất và rễ. Công thức xử lý Điền Trang-NEMA xuất hiện tuyến trùng trong rễ nhưng với mật độ rất thấp và chỉ có tuyến trùng Meloidogyne spp. gây sưng rễ, với mật độ 3 con/5g rễ. Trong khi đó công thức đối chứng mật độ tuyến trùng khá cao, tồn tại cả trong đất và trong rễ, gây hại khá nặng đối với rễ cây cà phê giống.

             Bảng 4. Mật độ tuyến trùng trong đất và rễ sau khi cắm cây 6 tháng

TT

Công thức

Mật độ tuyến trùng trong đất

(con/100 g đất)

Mật độ tuyến trùng trong rễ

(con/5 g rễ)

Pra.

Mel.

Pra.

Mel.

1

Điền Trang-NEMA

0

0

0

3

2

Tervigo 020 SC

0

0

0

0

3

Vimoca 20 EC

0

0

0

0

4

Đối chứng

10

24

28

41

      Như vậy qua theo dõi diễn biến mật độ tuyến trùng trong đất và trong rễ của các công thức cho thấy việc xử lý cây giống cà phê vối trong vườn ươm bằng các chế phẩm Điền Trang-NEMA, Tervigo 020 SC và Vimoca 20 EC có hiệu quả cao trong việc tiêu diệt nguồn tuyến trùng gây bệnh, giúp cây cà phê con sinh trưởng tốt hơn.

     Xác định mức độ ảnh hưởng của tuyến trùng đến cây cà phê trong giai đoạn vườn ươm cho thấy khả năng sinh trưởng cũng như sự tăng sinh khối bộ rễ của cây con trong thời gian đầu chưa có sự khác biệt giữa khác công thức, tuy nhiên tại thời điểm 4 và 6 tháng sau khi cắm cây có sự khác biệt khá rõ giữa các công thức. Kết quả thể hiện ở bảng 5 – 8.

     Bảng 5. Chiều cao cây cà phê sau khi cắm vào bầu 2, 4 và 6 tháng (n = 45)

TT

Công thức

Cao cây (cm)

2 tháng

4 tháng

6 tháng

1

Điền Trang-NEMA

9,3

17,0 a

42,4 a

2

Tervigo 020 SC

9,4

17,6 a

43,1 a

3

Vimoca 20 EC

9,4

16,6 ab

41,2 ab

4

Đối chứng

9,1

15,7 b

39,5 b

 

CV (%)

2,4

2,9

6,0

     Các công thức xử lý thuốc có chiều cao cây phát triển tốt hơn, sau 6 tháng đạt từ 41,2 – 43,1 cm, trong khi đó công thức đối chứng chiều cao cây chỉ đạt 39,5 cm. Điều này cũng tương đồng với kết quả phân tích mật độ tuyến trùng trong đất và rễ tại các thời điểm theo dõi, khi mật độ tuyến trùng cao đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển chiều cao cây cà phê trong giai đoạn vườn ươm.

     Bảng 6. Đường kính gốc cây cà phê sau khi cắm vào bầu 2, 4 và 6 tháng (n = 45)

TT

Công thức

Đường kính gốc (mm)

2 tháng

4 tháng

6 tháng

1

Điền Trang-NEMA

2,2

3,0

5,4

2

Tervigo 020 SC

2,1

3,1

5,5

3

Vimoca 20 EC

2,2

3,1

5,4

4

Đối chứng

2,1

3,0

5,3

 

CV (%)

3,9

4,4

5,7

     Vào các thời điểm 2, 4, 6 tháng sau khi cắm cây cà phê vối vào bầu đường kính gốc của cây cà phê vối ở các công thức xử lý phân vi sinh  vật và thuốc bảo vệ thực vật lớn hơn so với đối chứng, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.

     Bảng 7. Chiều dài rễ cây cà phê sau khi cắm vào bầu 2, 4 và 6 tháng (n = 45)

TT

Công thức

Chiều dài rễ (cm)

2 tháng

4 tháng

6 tháng

1

Điền Trang-NEMA

8,9

18,3 a

21,9 a

2

Tervigo 020 SC

8,8

18,0 a

22,5 a

3

Vimoca 20 EC

8,9

17,2 a

20,3 ab

4

Đối chứng

8,8

15,3 b

18,9 b

 

CV (%)

5,6

2,5

4,4

Sau 6 tháng, chiều dài rễ cọc ở công thức đối chứng chỉ đạt 18,9 cm, trong khi ở các công thức xử lý phân vi sinh vật và thuốc bảo vệ thực vật đạt trung bình từ 20,3 – 22,5 cm. Trong đó 2 công thức xử lý Điền Trang-NEMA và Tervigo 020 SC đạt cao hơn các công thức khác và sự khác biệt có ý nghĩa so với đối chứng. Công thức xử lý Vimoca 20 EC không khác biệt so với đối chứng. Qua theo dõi cho thấy, khi xử lý bằng thuốc hóa học Vimoca 20 EC, bộ rễ cây cà phê vối phát triển chậm hơn so với việc xử lý bằng các loại thuốc sinh học.

     Bảng 8. Khối lượng rễ cây cà phê sau khi cắm vào bầu 2, 4 và 6 tháng (n = 45)

TT

Công thức

Khối lượng rễ (g)

2 tháng

4 tháng

6 tháng

1

Điền Trang-NEMA

0,42

2,50 a

11,47 a

2

Tervigo 020 SC

0,48

2,58 a

12,03 a

3

Vimoca 20 EC

0,43

2,23 b

11,03 ab

4

Đối chứng

0,43

2,03 c

9,50 b

 

CV (%)

5,75

4,07

7,19

     Tương tự, cũng có sự khác biệt rõ rệt về khối lượng rễ giữa các công thức xử lý và đối chứng tại thời điểm 4 tháng và 6 tháng sau khi cắm cây cà phê vối vào bầu. Trong các công thức xử lý, 2 công thức xử lý Điền Trang-NEMA và Tervigo 020 SC giúp bộ rễ phát triển tốt hơn so với công thức xử lý Vimoca 20 EC, sau 6 tháng khối lượng rễ ở 2 công thức này đạt trung bình từ 11,47 – 12,03 g, Công thức xử lý Vimoca 20 EC đạt 11,03 g, trong khi ở công thức đối chứng chỉ đạt 9,5 g.

     Bảng 9. Tỷ lệ cây xấu, cây chết, cây bị nhiễm bệnh và cây đủ tiêu chuẩn xuất vườn ở các công thức thí nghiệm

TT

Công thức

Tỷ lệ cây chết (%)

Tỷ lệ cây xấu (%)

Tỷ lệ cây có bộ rễ bị thối, sưng (%)

Tỷ lệ cây đủ tiêu chuẩn xuất vườn (%)

Tăng so với đối chứng (%)

1

Điền Trang-NEMA

4,6

3,5

3,7

88,5

35,5

2

Tervigo 020 SC

3,5

4,5

2,2

90,0

37,8

3

Vimoca 20 EC

4,5

6,0

1,5

88,2

35,1

4

Đối chứng

8,7

13,8

20,2

65,3

 

     Tỷ lệ cây cà phê vối bị chết, tỷ lệ cây xấu và cây bị thối rễ, sưng rễ ở các công thức xử lý phân vi sinh vật và thuốc bảo vệ thực vật đã giảm đáng kể so với đối chứng, đặc biệt tỷ lệ cây có bộ rễ bị thối và sưng thấp hơn hẳn, trung bình từ 1,5 – 3,7% so với đối chứng là 20,2 %. Tỷ lệ cây đủ tiêu chuẩn xuất vườn ở các công thức xử lý đạt cao từ 88,2 – 90,0 %, tăng đáng kể so với đối chứng từ 35,1 – 37,8 %, trong đó tăng cao nhất là công thức xử lý Tervigo 020 SC.

     Như vậy, việc xử lý phân vi sinh vật và thuốc bảo vệ thực vật cho cây cà phê trong giai đoạn vườn ươm nhìn chung đã hạn chế nguồn tuyến trùng trong bầu cây, giúp giảm thiểu tối đa mật độ tuyến trùng trong đất và sự lây nhiễm gây hại trong rễ cây cà phê, giúp cây cà phê sinh trưởng tốt hơn, giảm tỷ lệ cây chết, cây xấu, cây bị nhiễm bệnh thối rễ, sưng rễ cũng như tăng tỷ lệ cây xuất vườn so với không xử lý.

5. Kết luận và đề nghị

5.1. Kết luận

     Các công thức xử lý Điền Trang-NEMA (nồng độ 0,25 %), Tervigo 020 SC (nồng độ 0,3 %) và Vimoca 20 EC (nồng độ 0,15 %) cho cây cà phê trong giai đoạn vườn ươm đều hạn chế được sự phát triển, xâm nhập của tuyến trùng và nấm gây hại bộ rễ cây cà phê con, giúp nâng cao tỷ lệ cây đạt tiêu chuẩn xuất vườn so với không xử lý. Trong đó xử lý Tervigo 020 SC có tỷ lệ xuất vườn cao nhất là 90,0 %, xử lý Điền Trang-NEMA và Vimoca 20 EC đạt lần lượt 88,5% và 88,2% (Hiện tại thuốc hóa học Vimoca 20 EC đã bị cấm sử dụng).

5.2. Đề nghị

     Đề nghị sử dụng phân vi sinh vật Điền Trang-NEMA và thuốc sinh học Tervigo 020 SC để phòng trừ tuyến trùng cho cây cà phê giống trong vườn ươm.

Điền Trang-NEMA

Tervigo 020 SC

 Vimoca 20 EC  Đối chứng (không xử lý)

Bộ rễ cây cà phê của các công thức thí nghiệm ở thời điểm 5 tháng sau khi cắm cây cà phê vối vào bầu