Sản xuất cà phê hữu cơ tại Tây Nguyên – tiềm năng, cơ hội và thách thức

ThS. Châu Thị Minh Long,

Bộ môn Hệ thống Nông nghiệp

1. Mở đầu

Cà phê là một trong những ngành hàng chủ lực, góp phần tái cơ cấu ngành nông nghiệp và đóng góp đáng kể vào GDP của Việt Nam. Tây Nguyên là địa bàn không những có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh mà còn có điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư, phát triển kinh tế – xã hội, có nhiều tiềm năng, lợi thế về đất đai, khí hậu thích hợp để phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa quy mô lớn, tập trung. Theo các số liệu thống kê, hiện toàn vùng Tây Nguyên có khoảng 620.000 ha cà phê, chiếm 90% diện tích cà phê cả nước. Khối lượng xuất khẩu 1.882 ngàn tấn, kim ngạch xuất khẩu 3.544 triệu USD (Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2019). Sản phẩm cà phê được xuất sang 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, chiếm 14% thị phần và 10,4% giá trị cà phê nhân xuất khẩu toàn cầu (Cục Chế biến và Phát triển thị trường Nông sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2019). Cà phê mang đến việc làm cho khoảng 600.000 nông dân trồng cà phê và hàng chục nghìn lao động trong các ngành nghề, dịch vụ cho chuỗi phát triển cà phê.

Tuy nhiên, sản xuất cà phê trong những năm gần đây đang gặp những khó khăn như do sự thay đổi bất thường của điều kiện khí hậu thời tiết (hạn hán, mưa trái mùa…), giá cả thấp, chi phí vật tư đầu vào tăng (công lao động, phân bón, thuốc BVTV, …).

Ngày 10/6/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 899/2013/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững ở cả ba khía cạnh là kinh tế, xã hội và môi trường. Ngày 29/8/2018 Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 109/2018/NĐ-CP về Nông nghiệp hữu cơ. Đây là một nhu cầu tất yếu, một phương thức sản xuất quan trọng hiện nay cũng như trong thời gian tới để thực hiện mục tiêu tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững đến năm 2030. Vì vậy, để phát triển cà phê bền vững cho Việt Nam nói chung và Tây Nguyên nói riêng, sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ là một hướng đi mới, phù hợp với xu thế của thế giới.

2. Sản xuất cà phê hữu cơ

Cà phê hữu cơ là cà phê được canh tác theo phương pháp hữu cơ. Điều này có nghĩa là cây cà phê được trồng trên vùng đất sạch, sử dụng nguồn nước sạch để tưới và không sử dụng hóa chất nông nghiệp.

Những tiêu chuẩn của cà phê hữu cơ

Những tiêu chuẩn về chất lượng của cà phê hữu cơ như sau:

  • Không chứa tạp chất
  • Không tồn dư hóa chất độc hại
  • Không sử dụng hóa chất tạo màu, tạo mùi
  • Không sử dụng chất tạo bọt, tạo vị đắng, vị chua
  • Không chứa chất bảo quản

Để đạt được những tiêu chuẩn ấy, quá trình canh tác cây cà phê và thu hoạch chế biến bảo quản cũng phải hết sức nghiêm ngặt.

Về canh tác hữu cơ:

Cây cà phê phải đươc canh tác trong môi trường hữu cơ, người nông dân tạo môi trường phát triển thuận theo tự nhiên tối đa cho cây cà phê và đảm bảo không có bất cứ yếu tố hóa học nào tác động đến cây.

Quy trình canh tác cà phê hữu cơ phải luôn được kiểm soát chặt chẽ các yếu tố, đảm bảo an toàn và sạch. Nguồn đất và nguồn nước là hai yếu tố vô cùng quan trọng trong canh tác cà phê hữu cơ. Đảm bảo nguồn nước và đất sạch, không nhiễm hóa chất để cây thuận lợi phát triển. Duy trì điều kiện tự nhiên thuận lợi cho các thiên địch. Ngoài ra, có thể sử dụng phân bón vi sinh hoặc thuốc trừ sâu từ thảo mộc thiên nhiên để trị sâu bệnh.

Về quá trình rang xay:

Quá trình rang xay cà phê hữu cơ tuyệt đối không sử dụng bất cứ phụ gia, nguyên liệu, chất tạo mùi tạo vị nào khác.

Về bảo quản:

Cà phê hữu cơ phải được bảo quản an toàn, chặt chẽ, đảm bảo cà phê không có những biến đổi về chất, mùi và hương vị.

3. Tiềm năng, cơ hội và khó khăn, thách thức của sản xuất cà phê hữu cơ tại Tây Nguyên

3.1. Tiềm năng, cơ hội

Với sự gia nhập vào các tổ chức thương mại thế giới như CPTPP, RCEP, EVFTA,.., Việt Nam có nhiều tiềm năng để xuất khẩu cà phê hữu cơ ra thế giới, đặc biệt là thị trường Châu Âu.

Tây Nguyên là vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống ở vùng sâu, vùng xa với điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, việc lạm dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, sử dung hóa chất ở những nơi này còn hạn chế nên ô nhiễm môi trường đất đai ít, có thể nói đây là cơ hội, lợi thế để sản xuất cà phê hữu cơ.

Trong sản xuất cà phê hữu cơ thì phân bón hữu cơ đóng vai trò rất quan trọng. Tây Nguyên có nhiều lợi thế để phát triển trọt và chăn nuôi; Vì vậy, nguồn phụ, phế phẩm nông nghiệp rất dồi dào. Nếu có thể ứng dụng khoa học công nghệ, sử dụng vi sinh vật, enzyme để xử lý phụ, phế phẩm trong nông nghiệp, chất thải trong chăn nuôi để sản xuất phân bón hữu cơ phục vụ cho sản xuất cà phê hữu cơ sẽ là một triển vọng khá tốt trong tương lai trên địa bàn Tây Nguyên.

Trong bối cảnh cả nước chung tay xây dựng Nông thôn mới và triển khai thực hiện Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) theo Quyết định số 490 QĐ – TTg của Thủ tướng Chính Phủ, sản phẩm cà phê hữu cơ sẽ là một cơ hội và là hướng đi đúng đắn để góp phần thực hiện thành công chương trình này.

3.2. Khó khăn, thách thức

Bên cạnh những tiềm năng, cơ hội như đã nêu trên, sản xuất cà phê hữu cơ tại Tây Nguyên cũng cho thấy có những khó khăn, thách thức:

Về phương thức sản xuất: Nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn tại các tỉnh Tây Nguyên và sản xuất cà phê là nguồn thu nhập chính của nhiều hộ gia đình nông dân. Trong những năm qua, phương thức canh tác cà phê đã sử dụng nhiều hóa chất nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu hóa học nên đất đai phần nào đã bị thoái hóa, ô nhiễm, cần phải có thời gian, tài chính và khoa học kỹ thuật để cải tạo, phục hồi độ phì của đất theo tiêu chuẩn hữu cơ.

Về chi phí và lợi nhuận: Sản xuất cà phê hữu cơ đòi hỏi phải tuân theo quy trình canh tác, thu hoạch và chế biến nghiêm ngặt và phải đựợc chứng nhận nên sẽ tạo ra chi phí đầu vào cao. Đây sẽ là thách thức trong sản xuất cà phê hữu cơ đối với nông dân và các cơ sở tổ chức như Hợp tác xã, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong khi đó, năng suất của canh tác cà phê hữu cơ thấp hơn nhiều so với canh tác thông thường. Điều này sẽ dẫn đến thu nhập của người trồng cà phê giảm.

Về tổ chức sản xuất và quản lý: Hiện nay sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ nói chung và cà phê hữu cơ nói riêng mới chỉ ở dạng nhỏ lẻ, quy mô hẹp, chưa có vùng sản xuất lớn. Việc chứng nhận sản phẩm cà phê hữu cơ phụ thuộc phần lớn vào các tổ chức nước ngoài. Đây cũng là những thách thức lớn trong sản xuất cà phê hữu cơ trên địa bàn Tây Nguyên, trong khi đó sản xuất cà phê theo hướng hữu cơ lại chưa rõ ràng để các tổ chức cấp chứng nhân.

Về nghiên cứu đào tạo, ứng dụng trong thực tiễn sản xuất: Sản xuất cà phê hữu cơ đòi hỏi những yêu cầu nghiêm ngặt nên cần hỗ trợ đào tạo cho người sản xuất kiến thức cà phê hữu cơ. Thực tế hiện nay, quy trình sản xuất cà phê hữu cơ chưa được ban hành. Bên cạnh đó, tài nguyên đất nông nghiệp của Tây Nguyên rất phong phú, đa dạng với các vùng sinh thái nông nghiệp khác nhau nên cần phải được triển khai các đề tài, dự án nghiên cứu, mô hình sản xuất thử nghiệm, phân bón hữu cơ phù hợp cho từng địa phương và vùng sinh thái cụ thể.

Như vậy,  phát triển cà phê hữu cơ là một hướng đi mới phù hợp với xu hướng và nhu cầu của thị trường thế giới và Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) của Việt Nam hiện nay. Sản xuất cà phê hữu cơ cần áp dụng đồng bộ các giải pháp quản lý kỹ thuật (giống chất lượng cao; quản lý phân bón; quản lý sâu bệnh hại; quản lý tưới nước tiết kiệm, hiệu quả; đa dạng hóa cây trồng; ứng dụng công nghệ sinh học trong bảo vệ thực vật; nói không với hóa chất nông nghiệp,…) Bên cạnh đó, cần có giải pháp về nguồn nhân lực, đất đai, cơ sở hạ tầng, cơ sở dữ liệu, tài chính, thị trường, tổ chức sản xuất, quản lý và cấp giấy chứng nhận. Thêm vào đó, cần tăng cường công tác nghiên cứu đào tạo, ứng dụng trong thực tiễn sản xuất nông nghiệp hữu cơ nhằm nâng cao chất lượng, nâng cao giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị ngành hàng để góp phần phát triển cà phê bền vững./.