KS. Nguyễn Thị Ngọc Hà, TS. Phạm Công Trí
Bộ môn Hệ thống Nông nghiệp
Mở đầu
Thời gian qua, việc các thảm thực vật suy giảm chất lượng kéo theo tình trạng xói mòn, rửa trôi đất xảy ra mạnh mẽ; đất canh tác bạc màu, sa mạc hóa, hạn hán, lũ lụt bất thường… đã ảnh hưởng tiêu cực đến sinh kế của người dân; tác động xấu đến môi trường; gia tăng các tác động bất lợi của biến đổi khí hậu (Bạch Hồng Việt, 2017).
Nông lâm kết hợp (NLKH) là mô hình nhằm tăng sinh kế của người dân, tái tạo thảm phủ, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái, đa dạng hóa sản phẩm (gỗ củi, nông sản,…), nâng cao hiệu quả sản xuất, phù hợp tập quán canh tác, duy trì tính bền vững của hệ sinh thái. Vì vậy, NLKH đã trở thành một xu hướng tất yếu, phù hợp với tiến bộ xã hội.
Thời gian qua, ở Tây Nguyên nói chung, huyện Lắk (tỉnh Đắk Lắk) nói riêng nông dân đã phát triển nhiều hệ thống NLKH cho hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn so với các hệ thống canh tác đơn canh hay độc canh khác; đã góp phần cải thiện độ ẩm, độ phì nhiêu của đất cũng như hạn chế được sự khắc nghiệt do thiếu nước tưới trong mùa khô hạn kéo dài (Nguyễn Văn Thường và cộng sự, 2002; Phạm Công Trí và cộng sự, 2017).
Các tổ chức khoa học trong Liên Minh Sinh Kế Xanh (GLA), Trung tâm Nghiên cứu Lâm nghiệp Nhiệt đới (Tropenbos) và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI) rất quan tâm nghiên cứu và xác định các loại hình NLKH phù hợp với điều kiện cụ thể của huyện Lắk. Từ đó đề xuất phát triển, nhân rộng các loại hình canh tác NLKH và NLKH trên vườn cà phê nhằm thích ứng và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và canh tác cà phê hiệu quả (Phạm Công Trí và cộng sự, 2018).
Diện tích cây trồng và cây lâu năm chủ lực của huyện Lắk
Hình 1. Diện tích các cây trồng chủ lực của huyện Lắk
Qua hình 1 cho thấy cà phê là cây trồng cạn có diện tích lớn nhất (4.395 ha), là cây lâu năm chủ lực diện tích vượt xa các cây lâu năm khác (240 – 869 ha) và nhiều cây lâu năm (điều, tiêu, cây ăn quả,…) được xen trong cà phê hoặc trồng cà phê xen vào. Vì vậy, trồng xen trong vườn cà phê là hướng nông lâm kết hợp chủ yếu của huyện Lắk.
Hình 2. Diện tích các cây lâu năm chủ lực của huyện Lắk
Qua các biểu đồ ở hình 2, một lần nữa khẳng định cà phê là cây trồng cạn lâu năm chủ lực và phát triển mạnh của huyện Lắk. Trong bối cảnh cà phê giá thấp và biến đổi khí hậu khốc liệt thì việc trồng xen theo nông lâm kết hợp trên vườn cà phê vừa tạo ra công ăn việc làm và tăng nguồn thu; vừa phát triển thảm cây thân gỗ góp phần cải thiện vi khí hậu trên vườn cà phê vối nói riêng và cải thiện môi trường sinh thái của địa bàn nói chung; đem lại lợi ích tổng hợp trên cả 3 khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường.
Tuy nhiên, trong thực tế sản xuất, bên cạnh những kết quả to lớn đã đạt được thì các loại hình nông lâm kết hợp trên vườn cà phê vối ở huyện Lắk cũng đang còn nhiều tồn tại cần được khắc phục để tăng hiệu quả và phát triển bền vững.
Hiện trạng trồng trọt và nông lâm kết hợp trên cà phê ở huyện Lắk
Canh tác nông lâm nghiệp của huyện Lắk cũng đang ngày càng đa dạng; một cách khái quát nhất chúng có các đặc điểm, vấn đề nổi bật như sau:
Nguồn: Phạm Công Trí, Võ Hùng, 2018
Hình 2. Lát cắt các hệ thống sử dụng đất và NLKH phổ biến ở địa phương
Hình 3. Nguyên nhân trồng xen theo nông lâm kết hợp chưa phổ biến
Mô hình NLKH “Cà phê + Điều”
Cả hai cây lâu năm kết hợp cố định trong thời gian dài, được người dân trồng nhiều tại các xã: Bông Krang, Đăk Nuê, Yang Tao, Đăk Phơi,…
Hiệu quả kinh tế của mô hình: Tại thời điểm nghiên cứu thu hoạch của mô hình dao động từ 70 – 100 triệu đồng/ha/năm; sau khi trừ các chi phí (phân bón, thuốc BVTV, nước tưới,…) lợi nhuận trung bình khoảng 45 – 60 triệu đồng/ha/năm.
Mô hình NLKH “Cà phê + Hồ tiêu trụ choái sống”
Ba loại cây được trồng trong mô hình là cây cà phê, tiêu và cây trụ choái sống là các loài cây lâu năm được trồng cố định, có mối quan hệ sinh thái cộng sinh, tương hỗ. Mô hình NLKH này được người dân phát triển ở nhiều địa phương, tập trung nhất ở các xã: Đăk Phơi, Đăk Nuê,…
Hiệu quả kinh tế của mô hình: Mô hình NLKH cà phê xen tiêu mang về nguồn thu nhập 90 – 115 triệu đồng/ha/năm; sau khi trừ các chi phí (phân bón, thuốc BVTV, nước tưới,…) lợi nhuận trung bình đạt 60 – 75 triệu đồng/ha/năm.
Mô hình NLKH “Cà phê + Sầu riêng”
Hai loại cây trồng trong mô hình là cây cà phê và sầu riêng là các loài cây lâu năm được trồng cố định, có mối quan hệ tương hỗ. Mô hình NLKH này được người dân phát triển ở nhiều địa phương, tập trung nhất ở các xã: Yang Tao, Bông Krang, Đăk Nuê, Đăk Phơi, Đăk Liêng,…
Hiệu quả kinh tế của mô hình: Mô hình NLKH cà phê xen tiêu mang về nguồn thu nhập 120 – 150 triệu đồng/ha/năm; sau khi trừ các chi phí (phân bón, thuốc BVTV, nước tưới,…) lợi nhuận trung bình đạt 80 – 100 triệu đồng/ha/năm.
Mô hình NLKH “Cà phê + Bơ”
Hai loại cây được trồng trong mô hình là cây cà phê và bơ là các loài cây lâu năm được trồng cố định, có mối quan hệ tương hỗ. Mô hình NLKH này được người dân phát triển ở nhiều địa phương, tập trung nhất ở các xã: Bông Krang, Đăk Nuê; Đăk Phơi…
Hiệu quả kinh tế của mô hình: Mô hình NLKH cà phê xen tiêu mang về nguồn thu nhập 100 – 130 triệu đồng/ha/năm; sau khi trừ các chi phí (phân bón, thuốc BVTV, nước tưới,…) lợi nhuận trung bình đạt 60 – 80 triệu đồng/ha/năm.
Từ hiện trạng NLKH trên cà phê vối ở huyện Lắk, cần đề xuất các giải pháp thực hành sản xuất tốt cho các loại hình NLKH trên vườn cà phê để tăng hiệu quả và phát triển bền vững, ứng phó tích cực với biến đổi khí hậu; phục vụ phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Kỳ tới: Giải pháp thực hành sản xuất tốt NLKH cà phê ứng phó BĐKH ở huyện Lắk