Vị trí phân loại và tiềm năng chất lượng của các giống cà phê vối Việt Nam

TS. Nguyễn Văn Thường, ThS. Đinh  Thị Tiếu Oanh

1.Vị trí phân loại

     Cà phê vối (Coffea canephora) có nguồn gốc từ các khu rừng nhiệt đới thấp ở châu Phi, trải dài từ Ghi-nê tới Uganda. Berthaud (1986) chia cà phê vối thành hai nhóm (Group) chính là nhóm Ghi-nê (Guinean, đại diện là giống Kouillou được trồng rất ít do hạt nhỏ, năng suất thấp và hay bị bệnh) và nhóm Công-gô (Congolese, đại diện là giống Robusta được trồng phổ biến trên thế giới do hạt to, năng suất cao và chống được nhiều loại bệnh). Sự phân chia này dựa trên phân tích tính đa hình, xác định bằng chỉ thị của 7 enzyme chính. Berthaud cũng cho rằng các con lai giữa 2 nhóm GuineanCongolese thường cho sản phẩm có chất lượng cao nhất.

     Theo Nguyễn Sỹ Nghị (1982) cà phê vối trồng tại Việt Nam tuyệt đại đa số là giống Robusta và được du nhập từ đảo Java của Indonesia. Theo Trebel (1996) cà phê vối Việt Nam được nhập từ Cộng hòa Trung Phi.

     Trịnh Đức Minh (1997) đã gửi 15 kí hiệu giống (accessions) cà phê vối của Việt Nam sang Viện Nghiên cứu Tour – Pháp (FRT) để phân tích tính đa hình di truyền bằng chỉ thị RAPD (Random amplified polymorphic DNA = phân tích đa hình DNA khuyếch đại ngẫu nhiên), Phòng Công nghệ Sinh học của FRT kết luận là cả 15 ký hiệu giống này đều thuộc nhóm Công-gô.

     Năm 2013, Cubry và cộng sự đã chia cà phê vối nhóm Công-gô thành 5 phân nhóm (Sub-group) gồm: SG1, SG2, B, C và UW. Tuy nhiên gần đây Andrea Garavito và cộng sự (2016), khi sử dụng phương pháp phân tích DarTseq (Sequencing-based diversity array technology) để đánh giá mối tương quan về mặt di truyền của 105 kí hiệu giống cà phê vối trên thế giới, đã phân chia cà phê vối thành 5 nhóm di truyền gắn với vùng khởi nguyên, bao gồm:

  • Nhóm “Guinean” (đôi khi cũng gọi là nhóm D), là nhóm di truyền có nguồn gốc ở khu vực từ Bờ Biển Ngà tới Ghi-nê thuộc Tây Phi;
  • Nhóm “Nana” (đôi khi cũng gọi là nhóm C) đại diện cho cà phê nguồn gốc từ các vùng rìa ở Đông Nam Cameroon, Tây-Nam Cộng hòa Trung Phi, và Bắc Công-gô;
  • Nhóm “Conilon” (đôi khi cũng gọi là nhóm SG1 hoặc nhóm A) đại diện bởi các quần thể đã được thuần hóa như Luki, Niaouli và Kouillou, nguồn gốc từ phía nam của Gabon;
  • Nhóm “Robusta Congo-Central Africa” (đôi khi cũng gọi là nhóm B) hình thành bởi các loại cà phê hoang dại từ phía bắc của Công-gô, lưu vực miền trung và phía nam của Cộng hòa Trung Phi; và
  • Nhóm “Robusta Congo-Uganda” (đôi khi cũng gọi là nhóm SG2) liên quan chặt chẽ tới các quần thể hoang dại hoặc các giống được trồng có nguyên quán từ Uganda và lưu vực sông Công-gô

     Trong số 105 kí hiệu giống được phân tích có 6  giống hiện đang trồng ở Việt Nam và 41 kí hiệu giống hiện đang trồng ở Mexico. Andrea Garavito và cộng sự (2016) đã đưa ra hai kết luận rất đáng chú ý liên quan các giống Robusta đang được trồng là:

     – Về quan hệ di truyền: cà phê Robusta Việt Nam và Robusta Mexico cực kỳ thân thích và rất gần gũi với các giống cà phê đang trồng ở Uganda;

     – Về nguồn gốc: Robusta Việt Nam và Robusta Mexico đều thuộc nhóm “Robusta Congo-Uganda”, và đều có tiềm năng di truyền giống nhau để sản xuất cà phê tách có chất lượng tốt.

2. Chất lượng thử nếm của các giống cà phê vối Việt Nam

     Từ năm 2006 tới 2016 đã có 12 giống cà phê vối được công nhận và đưa vào trồng ở Việt Nam, trong đó 10 giống được công nhận chính thức (gồm: TR4, TR5, TR6, TR7, TR8, TR9, TR11, TR12, TR13 VÀ TRS1) và 2 giống được công nhận tạm thời (SXT, gồm TR14 và TR15). Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây Nguyên đã gửi các mẫu cà phê nhân chế biến ướt theo phương pháp chuẩn trong vụ 2016 và vụ 2017 của 9 giống chọn lọc tới 2 tổ chức giám định chất lượng cà phê để đánh giá chất lượng thử nếm (mùi vị) theo quy trình thủ tục và nghi thức của Hiệp hội Cà phê Mỹ (SCAA).

     Mỗi mẫu cà phê được đánh giá chất lượng tách theo 10 chỉ tiêu và điểm tối đa cho mỗi chỉ tiêu là 10, điểm số tối đa cho một mẫu là 100. Theo phân cấp của SCAA, cà phê có điểm thử nếm  >= 80 được xếp vào loại đặc sản (specialty). Kết quả đánh giá chất lượng mùi vị của các giống được nêu ở bảng dưới:

Điểm số chất lượng mùi vị của một số giống cà phê vối Việt Nam

Tổ chức đánh giá

Giống

TR4

TR6

TR9

TR11

TR12

TR13

TR14

TR15

TRS1

CAFECONTROL (*)

76,1

81,5

76,7

79,1

79,9

77,9

76,3

81,1

76,7

VCC&C (**)

78,5

78,0

77,0

81,25

74,5

81,75

72,5

79,5

(*) Công ty cổ phần Giám định Cà phê & Hàng hóa Xuất nhập khẩu, đánh giá ngày 27/2/17

(**) Công ty cổ phần Giám định và Chứng nhận Hàng hóa, đánh giá ngày  25/3/2018

Như vậy chất lượng thử nếm của các giống khá tốt, hầu hết tiệm cận chất lượng của cà phê đặc sản. Vụ thu hoạch 2016 có 2 giống đạt điểm cao gồm TR6 (81,5 điểm) và TR15 (81,1 điểm); và năm 2017 có 2 giống đạt điểm cao gồm TR11 (81,25 điểm) và TR13 (81,75 điểm.

3. Hình ảnh một số giống có điểm số mùi vị cao

Giống TR6 (Công nhận chính thức năm 2006).


 Giống TR11 (Công nhận chính thức năm 2011)

Giống TR13 (Công nhận chính thức năm 2011).

Giống TR15 (Công nhận sản xuất thử năm 2016).

(Theo Tài liệu hội thảo: Cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột: Tiềm năng tham gia thị trường cà phê đặc sản, Hiệp hội Cà phê Buôn Ma Thuột, 28/6/2018)