Những thành tựu nổi bật của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên trong nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao KHCN, góp phần phát triển kinh tế xã hội vùng Tây Nguyên trong giai đoạn 2010-2015.

1. Giới thiệu

Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên được thành lập theo Quyết định số 930/1997/QĐ-TTg ngày 03 tháng 11 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ. Năm 2008, Viện trực thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam theo Quyết định số 72/2008/QĐ-BNN ngày 10/6/2008 của Bộ Nông nghiệp và PTNT. Hiện Viện có trụ sở chính tại số 53 Nguyễn Lương Bằng, Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk. Viện còn có 2 trung tâm trực thuộc tại tỉnh Gia Lai và tỉnh Lâm Đồng.

Đóng chân trên địa bàn Tây Nguyên, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên là đơn vị sự nghiệp khoa học, có nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ trên các lĩnh vực nông lâm nghiệp, chăn nuôi, công nghệ sinh học, bảo vệ môi trường sinh thái phục vụ cho sự phát triển nông lâm nghiệp vùng Tây Nguyên. Cụ thể các nhiệm vụ chính của Viện bao gồm:

+ Nghiên cứu lai tạo, chọn lọc, nhân giống và phát triển giống cây trồng vật nuôi, phù hợp với điều kiện tự nhiên và kinh tế của Vùng;

+ Nghiên cứu cơ sở khoa học, xây dựng biện pháp thâm canh tăng năng suất, phòng trừ sâu, bệnh hại, chất lượng nông sản, cải thiện và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, đất, nước và bảo vệ môi trường;

+ Nghiên cứu  phát triển nông thôn;

+ Nghiên cứu phát triển chăn nuôi và cây thức ăn gia súc;

+ Nghiên cứu chế biến nông lâm sản và bảo quản sau thu hoạch;

+ Nghiên cứu phát triển lâm nghiệp và nông lâm kết hợp và bảo vệ môi trường;

+ Nghiên cứu phát triển dâu tằm tơ;

+ Nghiên cứu kinh tế thị trường nông lâm sản.

+ Thực hiện nhiệm vụ khuyến nông, khuyến lâm Vùng.

+ Khảo nghiệm giống cây trồng, vật nuôi, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật cùng các chế phẩm nông nghiệp khác.

+ Tham gia đào tạo, tư vấn đầu tư, dịch vụ chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và sản xuất kinh doanh thuộc các lĩnh vực nghiên cứu của Viện theo các quy định hiện hành của Nhà nước.

+ Thực hiện hợp tác về nghiên cứu khoa học, phát triển và chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực với các tổ chức trong nước và quốc tế.

2. Các thành tựu chính trong nghiên cứu và chuyển giao KHCN

Thực hiện nhiệm vụ chính trị chính của mình, Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên đã thực hiện rất nhiều các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học công nghệ thông qua các đề tài, dự án cấp nhà nước, cấp bộ và địa phương. Các đề tài, dự án chủ yếu tập trung nghiên cứu tổng thể các biện pháp kỹ thuật sản xuất nông nghiệp như giống cây trồng, canh tác, bảo vệ thực vật, quản lý sản xuất nhằm phát triển bền vững những cây trồng chủ lực như cà phê, ca cao, hồ tiêu, bơ… Hướng đi mới được áp dụng trong nghiên cứu giai đoạn gần đây là đưa các tiến bộ trong công nghệ sinh học vào nông nghiệp để đáp ứng các bước phát triển nông nghiệp hiện đại. Các đề tài, dự án giai đoạn gần đây đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết các vấn đề cấp thiết trong nông nghiệp ở các tỉnh Tây Nguyên và lân cận; và là một phần trong thành công của việc phát triển nông nghiệp vùng như hiện nay. Trong giai đoạn 2010-2015 Viện tổ chức thực hiện 04 đề tài cấp Nhà nước, 18 đề tài trọng điểm cấp Bộ, 5 đề tài từ nguồn vốn ADB; 23 đề tài nghiên cứu thường xuyên; 1 Dự án sản xuất thực nghiệm độc lập cấp nhà nước; 12 đề tài cấp tỉnh; 13 đề tài nhánh; 1 Dự án bảo tồn nguồn gen; 3 nhiệm vụ về tiêu chuẩn đo lường chất lượng.

2.1. Một số thành tựu về nghiên cứu giống cây trồng

Giống là một trong những lĩnh vực ưu tiên nghiên cứu để phục vụ sản xuất nông nghiệp. Trải qua giai đoạn nghiên cứu của Viện từ khi thành lập đến nay, nhiều giống cây trồng và các tiến bộ về nhân giống đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận để phục vụ cho sản xuất, gồm:

* Giống cà phê:

Cà phê là cây trồng chủ lực của vùng Tây Nguyên nhưng trong giai đoạn phát triển trước đây, vấn đề giống chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy các vườn cà phê trồng trước đây thường có năng suất thấp, chất lượng hạt kém và dễ bị nhiễm bệnh gỉ sắt. Để khắc phục các nhược điểm trên và giải quyết một cách triệt để các yếu kém của ngành sản xuất cà phê, Viện KHKT-NLN Tây Nguyên đã có những thành công vượt bậc trong các nghiên cứu về giống cà phê. Kết quả Viện đã được Bộ NN và PTNT công nhận chính thức 9 giống cà phê vối là giống quốc gia, trong đó các giống mới như TR9, TR11,TR12,TR13 có tiềm năng năng suất cao > 5 tấn nhân/ha; tỉ lệ hạt trên sàng số 16 trên 90%; có khả năng kháng các loại sâu bệnh nguy hiểm đối với cà phê; 2 giống cà phê chè TN1 và TN2 có năng suất > 3 tấn nhân, kháng bệnh gỉ sắt cao và có chất lượng nhân tốt.

Gần đây, Viện đang tiếp tục tuyển chọn các giống mới theo hướng tạo ra các giống có khả năng kháng tuyến trùng để phục vụ cho tái canh; các giống chín muộn để thích ứng với tình trạng biến đổi khí hậu hiện nay. Trong 5 năm gần đây, Viện đã cung cấp một số lượng giống có chất lượng cao để phục vụ cho sản xuất, đặc biệt là cho việc tái canh cà phê ở Tây Nguyên. Cụ thể Viện đã cung cấp:

– Cây cà phê vối ghép giống TR4, TR5, TR6, TR7, TR8, TR9, TR11, TR12, TR13: 1.750.000 cây; 2.500.000 chồi ghép;

– Cây cà phê vối thực sinh TRS1: 3.550.000 cây;

– Cây cà phê vối thực sinh bầu lớn TRS1: 38.333 cây

– Cây cà phê vối lá sò TRS1: 5.023.000 cây

– Hạt cà phê vối tổng hợp TRS1: 40.000 kg

– Hạt giống cà phê chè: 1.500 kg

Đây chính là tiền đề để có những vườn cà phê có năng suất cao, phẩm chất hạt tốt và có khả năng kháng bệnh gỉ sắt, tạo ra việc phát triển bền vững trong sản xuất cà phê của vùng Tây Nguyên.

* Giống cây trồng khác : 

Song song với các nghiên cứu về giống cà phê, Viện cũng đầu tư vào việc tuyển chọn và đưa ra sản xuất các giống của các loại cây trồng quan trọng có giá trị cao cho vùng Tây Nguyên, trong đó các giống ca cao, bơ, hồ tiêu …. có chất lượng tốt đã được kịp thời đưa ra phục vụ sản xuất đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Các thành tựu chính trong 5 năm trở lại đây bao gồm:

+ Được Bộ NN và PTNT công nhận cho sản xuất thử 2 giống ca cao PBC157 và PBC159 năng suất > 2,5 tấn nhân/ha; trọng lượng hạt lớn > 1g, hàm lượng dầu trên 55%, kháng tốt với sâu bệnh hại.

+ Công nhận cho sản xuất thử 4 giống bơ TA1, TA3, TA5 và Booth 7 năng suất cao, khối lượng quả ≥ 300g; hàm lượng chất khô ≥ 19%; tỷ lệ thịt quả ≥ 65%; hàm lượng chất béo trong thịt quả ≥ 10%.

+ Được công nhận 2 giống dâu TBL03 (chính thức) và TBL 05 (cho sản xuất thử) chống chịu tốt với sâu bệnh, năng suất  đạt 25 tấn/ha.

+ Nhân giống thành công cây Thủy tùng bằng phương pháp ghép chồi Thủy tùng trên gốc ghép cây Bụt mọc, giúp công tác bảo tồn loài cây lâm nghiệp quý, đang có nguy cơ tuyệt chủng, trở nên thuận lợi.

Ngoài ra, Viện còn trực tiếp nhân và đưa vào sản xuất các cây giống có chất lượng cao. Đây cũng là một trong những đóng góp cho thành công của sản xuất nông nghiệp các tỉnh Tây Nguyên những năm vừa qua. Cụ thể Viện đã cung cấp vào sản xuất:

+ Giống Ca cao: 100.000 cây ghép; 15.000 chồi ghép

+ Giống bơ ghép (TA1, TA3, TA5 và  BOOTH 7): 80.000 cây

+ Hồ tiêu ươm bầu giống Vĩnh Linh: 100.000 cây

+ Giống Mắc ca ghép giống OC, H2: 12.000 cây

+ Giống tằm cấp 2 TN1278: 10.000 hộp

+ Giống dâu:  VA- 20, S7 – CB: cho quy mô trồng 100.000 ha

+ Cây hồng môn cấy mô: 150.000 cây

2.2. Các thành tựu về nghiên cứu hệ thống canh tác

Ngoài các nghiên cứu về giống, Viện cũng đã đầu tư nghiên cứu hệ thống canh tác phù hợp cho các tỉnh Tây Nguyên. Đây cũng là lĩnh vực rất quan trọng góp phần phát triển nông nghiệp bền vững. Hướng đi của các nghiên cứu này là áp dụng các kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao phù hợp với điều kiện tự nhiên của các tiểu vùng sinh thái, kinh tế xã hội với tiêu chí đa dạng hóa sản phẩm, giảm chi phí sản xuất và tăng hiệu quả kinh tế theo hướng bền vững. Đặc biệt Viện đã đưa những tiến bộ KHKT trong nghiên cứu hệ thống vào áp dụng cho những mô hình tái canh cà phê ở Tây Nguyên. Các thành tựu chính trong lĩnh vực này bao gồm:

+ Xác định các hệ thống cây trồng vật nuôi và mô hình canh tác nông lâm nghiệp phù hợp trên địa bàn các xã vùng sâu vùng xa của các tỉnh Đăk Lăk, Đăk Nông, …  cho hiệu quả cao hơn 20 % so với các hệ cây trồng hiện có.

+ Xây dựng quy trình và mô hình ICM cho cây tiêu đã tiết kiệm được trung bình 19,65% chi phí đầu vào so với đối chứng và tăng hiệu quả kinh tế sản xuất hồ tiêu lên 21.633.000 đồng/ha/năm, tỷ lệ sâu bệnh hại thấp (0,75-4,5%).

+ Hoàn thành công nghệ và quy trình tưới nước tiết kiệm và bón phân qua nước cho cây cà phê ở Gia Lai và Đăk Lăk với khả năng tiêt kiệm 20-50% lượng nước tưới và 20-40% lượng phân bón so với các phương pháp truyền thống.

+ Cải tiến hệ thống tưới nước tiết kiệm cho cà phê của Viện KHKT NLN Tây nguyên thành hệ thống tưới phù hợp cho cây Hồ tiêu, giúp nâng cao hiệu quả tưới, hệ thống dễ lắp ráp, giá thành giảm và phù hợp với điều kiện địa phương.

+ Xây dựng 30 mô hình (30 ha) thâm canh cà phê đã được cấp giấy chứng nhận cà phê bền vững Rainforest Alliance.

+ Xây dựng 149 mô hình tái canh cà phê (80 ha) tại 5 tỉnh Tây Nguyên. Các mô hình này đều sinh trưởng tốt, tỷ lệ sống >95%.

+ Xây dựng 9 mô hình tưới tiết kiệm cho cà phê (9 ha) tại Đăk Lăk, Đăk Nông và Gia Lai.

+ Xây dựng quy trình và các mô hình tái canh có cải tiến, áp dụng những tiến bộ trong canh tác, sử dụng chế phẩm phòng trừ sâu bệnh hại cho cà phê ở Đăk Lăk và Đăk Nông với quy mô 10 ha.

+ Chuyển giao quy trình sản xuất bền vững và các biện pháp nâng cao thương hiệu cho hồ tiêu ở Đăk Nông và cà phê ở Đăk Lăk.

+ Xác định một số yếu tố chủ yếu quyết định cho tái canh cà phê thành công ở Tây Nguyên.

2.3. Nghiên cứu về công nghệ sinh học, chế biến nông sản, bảo vệ thực vật, phân bón

Các nghiên cứu về công nghệ sinh học, bảo vệ thực vật và phân bón cũng là thế mạnh của Viện và có những đóng góp không nhỏ trong sản xuất nông nghiệp cho vùng Tây Nguyên. Đây là những nghiên cứu làm tiền đề để Viện đưa ra các quy trình, hệ thống canh tác cho vùng. Các thành tựu chính của Viện trong các lĩnh vực này là:

– Hoàn thành quy trình nuôi cấy mô cà phê vối và chè để nhân nhanh các giống cà phê đưa vào sản xuất với công suất hơn 1 triệu cây/năm.

– Đưa các loại men sinh học vào hỗ trợ chế biến ướt cho cà phê và trong chế biến ca cao nhằm rút ngắn thời gian và giảm ô nhiễm.

– Tuyển chọn và thử nghiệm thành công các loại nấm đối kháng trong bảo vệ thực vật: Trichoderma VTN, Pseudomonas kháng rệp sáp, ..vv.

– Nghiên cứu đưa ra các chế phẩm phân bón qua lá chuyên dụng cho cà phê (Nucafe), hồ tiêu (Nupe) và các chế phẩm tăng sức kháng hạn cho cây trồng (CH3). Trong 5 năm gần đây, Viện đã đưa ra hơn 200 tấn phân bón lá Nucafe để phục vụ sản xuất.

2.4. Tập huấn, đào tạo

Cùng với các hoạt động nghiên cứu, các hoạt động tập huấn kỹ thuật, đào tạo cũng được Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên chú trọng. Các hoạt động thực hiện trong các năm vừa qua bao gồm mở các lớp tập huấn tiểu giảng viên, các lớp tập huấn trực tiếp cho nông dân. Việc biên soạn tài liệu khuyến nông và phổ biến kiến thức cũng được làm thường xuyên. Các thành tựu chính trong những năm vừa qua bao gồm:

– Đào tạo và tập huấn kỹ thuật cho hàng ngàn lượt cán bộ kỹ thuật, nông dân về kỹ thuật trồng, chăm sóc, chế biến các loại nông sản cà phê, ca cao, hồ tiêu, điều, dâu tằm, lúa, ngô trên địa bàn các tỉnh Tây nguyên. Hàng năm có khoảng 1.200- 1.500 lượt người được tham dự các lớp tập huấn kỹ thuật do Viện tổ chức.

– Huấn luyện, đào tạo ngắn hạn cho các tiểu giảng viên (ToT), cán bộ địa bàn của các chương trình đồng hành của nông của các đơn vị, công ty với quy mô trung  bình 300 người/năm. Đây là những lớp tập huấn nâng cao kỹ thuật trong sản xuất bền vững những cây trồng chính của vùng Tây Nguyên.

– Biên soạn nhiều loại số tay kỹ thuật, giáo trình, tờ bướm, tài liệu hướng dẫn kỹ thuật, tạp chí khoa học kỹ thuật, băng hình video; xây dựng các Tiêu chuẩn ngành, các quy trình kỹ thuật phục vụ cho việc phổ biến kỹ thuật cho nông dân; tham gia các chương trình hướng dẫn kỹ thuật nông nghiệp trên các chương trình truyền hình của các tỉnh trong khu vực.

3. Kết luận

Với các kết quả nghiên cứu trong gần 40 năm, có thể thấy Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên đã đóng góp một phần không nhỏ cho việc phát triển nông lâm nghiệp trên địa bàn Tây Nguyên, đặc biệt là thành tựu nổi bật với các cây công nghiệp chính của vùng. Hầu hết kết quả nghiên cứu của các đề tài đều mang tính ứng dụng thực tiễn cao, đã được chuyển giao cho sản xuất, góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế, xã hội và xây dựng nông thôn mới trên địa bàn vùng Tây Nguyên.