Nghiên cứu kỹ thuật ghép non Sầu riêng

                       TS. Trần Vinh

 

1.ĐẶT VẤN ĐỀ

     Đắk Lắk nói riêng và Tây Nguyên nói chung là vùng trồng sầu riêng lớn của nước ta. Theo báo cáo của Chi cục Trồng trọt và BVTV tỉnh Đắk Lắk đến năm 2018 diện tích sầu riêng toàn tỉnh khoảng 3.900 ha chủ yếu là trồng xen trong vườn cà phê. Các giống sầu riêng như Dona (Monthong), Ri6 trồng tại Tây Nguyên không những cho năng suất cao mà phẩm chất trái rất ngon được người tiêu dùng trong và ngoài nước biết đến.

     Hiện tại cây sầu riêng đang phát triển mạnh mẽ ở các tỉnh Tây Nguyên, vụ 2017-2018 các cơ sở sản xuất giống sầu riêng ở Tây Nguyên không đủ cung cấp giống để trồng, phải đi mua cây giống từ các tỉnh miền Tây Nam Bộ chở lên bán nên giá cây giống rất cao, từ 130 ngàn đến 150 ngàn đồng/cây. Giá hạt sầu riêng cũng rất cao từ 70 ngàn đến 80 ngàn đồng/kg chủ yếu là mua để làm gốc ghép.

     Cây giống sầu riêng được sản xuất ở miền Tây Nam Bộ chủ yếu là ghép mắt, được ghép trên gốc ghép lớn và nuôi dưỡng trực tiếp trên luống đất. Khi cây đạt tiêu chuẩn thì mới ghép và khi cây ghép sống thì người ta bứng cây lên và cho vào bầu. Việc sản xuất cây giống theo phương thức này chỉ thích hợp với nền đất phù sa ven sông của đồng bằng sông Cửu Long, vì khi bứng cây lên cho vào bầu, đất không bị vỡ. Nhưng đối với đất đỏ bazan của Tây Nguyên thì không sản xuất cây giống theo phương thức này được, vì đất tơi xốp khi bứng cây lên đất bị vỡ vụn và cây sẽ bị chết.

     Đề sản xuất cây giống sầu riêng tại Tây Nguyên có tỷ lệ sống cao, cây sinh trưởng tốt, giá thành thấp, đủ số lượng và không lệ thuộc vào cây giống được sản xuất tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ, thì việc nghiên cứu kỹ thuật ghép non sầu riêng là rất cần thiết để phục vụ cho nhu cầu trồng mới cây sầu riêng ở Tây Nguyên hiện nay.

2. CƠ SỞ LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP GHÉP NON SẦU RIÊNG

     – Do chiết và tháp cành bị hạn chế đó là hệ số nhân giống thấp, khó thực hiện, bộ rễ phân bố cạn nên cây dễ bị đổ ngã khi trồng.

     – Ghép mắt đòi hỏi đường kính gốc ghép phải lớn (1,5-2,0 cm) và tốn nhiều thời gian để nuôi dưỡng cây gốc ghép, thường trên 1,5 năm tuổi mới ghép được.

     – Cành để lấy mắt ghép không phải chọn được dễ dàng như ở phương pháp ghép non.

     – Cây gốc ghép lớn khi cho bào bầu phải cắt bớt rễ cọc nên khi trồng ngoài đồng nếu không chăm sóc cẩn thận cây dễ bị chết.

     Với những lý do như vậy, việc chọn phương pháp ghép ngọn trên gốc ghép sầu riêng non (1 tháng tuổi) là hoàn toàn hợp lý, nó không những tiết kiệm được thời gian nuôi dưỡng cây gốc ghép mà còn nâng cao hệ số nhân giống, dễ thực hiện, rễ không bị cắt xén và cây con sinh trưởng khỏe

3. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP

     – Cành ghép được lấy trên cây sầu riêng có ký hiệu EAKV-01 (tại Phường Khánh Xuân, Tp. Buôn Ma Thuột).

     + Cành ghép là những đoạn cành ở phía ngọn, mỗi cành mang 5 – 7 lá thuần thục không sâu bệnh, cành bánh tẻ đang trong giai đoạn sinh trưởng, ở mỗi nách lá bắt đầu nhú hạt gạo (chưa bật mầm).

    + Cành ghép được cắt ra từng đoạn nhỏ, mỗi đoạn mang 1 lá và lá được cắt bỏ 2/3 diện tích, mỗi đoạn có chiều dài 2 – 3 cm, đường kính 3 – 5 mm, mỗi đoạn như vậy là 1 một chồi ghép.

     – Gốc ghép được chọn là gốc ghép non (1 tháng tuổi) chưa xuất hiện lá mở.

     + Gốc ghép được cắt bỏ phần ngọn chỉ chừa lại phần để ghép cách trục hạ diệp 2 – 3 cm.

     – Ghép ngọn theo phương pháp chẻ, đoạn nêm vót từ 1,5 – 2 cm bằng với đoạn chẻ trên gốc ghép.

     – Dây buộc là dây ny lông mềm có bản rộng 5 – 7 mm, dài 10 – 15 cm, chỉ thắt chặt 1 vòng qua chỗ ghép.

     – Ghép xong dùng 1 cây que dài 20 cm cắm vào bầu đất và phủ toàn bộ bầu đất bằng túi PE có kích cỡ 14 x 25 cm.

    – Bầu đất làm gốc ghép có kích cỡ 12 x 20 cm, thành phần ruột bầu: 80% đất tầng mặt + 20% phân chuồng hoai.

    – Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 lần lặp lại, mỗi lần lặp ghép 50 cây, mỗi thời vụ ghép 150 cây, tổng số cây ghép là 450 cây.

    – Chỉ tiêu theo dõi:

    + Tỷ lệ sống của cây ghép sau khi ghép 1 và 2 tháng.

    + Sinh trưởng của cây ghép sau 4 tháng và trước khi xuất vườn.

    + Tỷ lệ cây sầu riêng xuất vườn.

 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Bảng 1: Tỷ lệ sống của cây ghép sau khi ghép 1 và 2 tháng

Thời vụ ghép

1 tháng (%)

2 tháng (%)

Tháng 8

100

98,0

Tháng 9

98,66

98,66

Tháng 10

92,66

92,66

TB

97,10

96,44

     Sau khi ghép 1, 2 tháng tỷ lệ sống của cây ghép rất cao, tỷ lệ sống trung bình trên 96%, tỷ lệ này ổn định và khá đồng đều giữa 3 thời vụ ghép. Vì vậy có thể nói rằng thời vụ ghép không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cây ghép.

Bảng 2: Sinh trưởng của cây ghép sau khi ghép 4 tháng

Thời vụ ghép

Chỉ tiêu sinh trưởng

D (mm)

CV%

H (cm)

CV%

Số lá mới

CV%

Số CN

CV%

Dài

CN (cm)

CV%

Tháng 8

4,63

9,13

22,20

17,51

5,58

17,79

1,62

40,17

4,86

61,56

Tháng 9

4,46

9,94

19,61

17,23

5,50

18,76

1,52

37,36

5,76

45,20

Tháng 10

4,40

9,15

19,90

13,11

5,52

13,90

1,73

41,15

4,71

59,14

TB

4,49

9,40

20,57

15,95

5,53

16,81

1,62

39,56

5,11

55,30

                                      Ft (H) = 4,68 NS

Ghi chú: + D: Đường kính thân cây cách mặt bầu 5 cm

+ H: Chiều cao cây tính từ mặt bầu tới ngọn

+ LM: Lá mới đã mở hoàn toàn

+ CN: Cành ngang

     Trong thời gian 4 tháng sau khi ghép, cây ghép sinh trưởng khá nhanh và tương đối đồng đều ở cả 3 thời vụ ghép. Hệ số biến động nhìn chung thấp, chỉ có cành ngang biến động khá cao.

     Để so sánh sinh trưởng của cây ghép, chúng tôi chọn chỉ tiêu chiều cao bình quân để so sánh. Qua tính toán cho thấy Ft < F05, như vậy sai khác về chiều cao của cây ghép ở 3 thời vụ là không có ý nghĩa ở mức thống kê.

Bảng 3: Sinh trưởng của cây ghép trước khi xuất vườn

Tuổi cây ghép

Chỉ tiêu sinh trưởng

D (mm)

CV%

H (cm)

CV%

Số LM

CV%

Số CN

CV%

Dài

CN

CV%

6 tháng

5,06

6,85

27,30

16,64

6,30

15,68

1,45

65,13

5,36

53,80

7 tháng

5,85

11,00

31,84

12,71

7,75

10,14

1,90

50,94

8,31

43,31

8 tháng

6,45

8,39

37,72

8,83

9,75

14,83

2,40

31,41

7,17

42,75

TB

5,78

8,74

32,28

12,72

7,93

13,55

1,91

49,16

6,94

46,62

 Trước khi xuất vườn cây ghép 6, 7 và 8 tháng tuổi đều sinh trưởng rất tốt, thể hiện rõ ở các chỉ tiêu đường kính gốc và chiều cao cây. Với mức độ sinh trưởng này cây ghép hoàn toàn có thể xuất vườn và đem ra trồng ngoài đồng được.

Bảng 4: Tỷ lệ cây sầu riêng đủ tiêu chuẩn xuất vườn

Tuổi cây ghép

Tổng số cây ghép

Số cây xuất vườn

Tỷ lệ cây xuất vườn (%)

Tiêu chuẩn cây xuất vườn

6 tháng

150

130

86,6

Cây sinh trưởng khỏe, không có dấu hiệu sâu bệnh, đường kính thân > 5mm, chiều cao cây > 25cm, có 4-5 lá thuần thục

7 tháng

150

135

90,0

8 tháng

150

132

88,0

Tổng, TB

450

397

88,2

     Kỹ thuật ghép non sầu riêng không những có tỷ lệ sống cao, cây sinh trưởng khỏe trong vườn ươm mà tỷ lệ cây xuất vườn cũng khá cao. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ cây xuất vườn trung bình là 88,2% và không khác nhau nhiều ở các độ tuổi cây ghép.

5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

5.1. Kết luận

– Phương pháp ghép ngọn trên gốc ghép non (1 tháng tuổi) là phương pháp mới dễ thực hiện, có tỷ lệ sống cao, cây ghép sinh trưởng khỏe trong vườn ươm, tỷ lệ cây xuất vườn cao và phù hợp với điều kiện sản xuất cây giống sầu riêng ở Tây Nguyên.

– Thời vụ ghép (tháng 8, 9, 10) trong mùa mưa không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống cũng như sinh trưởng của cây ghép.

5.2. Đề nghị: Ứng dụng phương pháp ghép ngọn trên gốc ghép non (1 tháng tuổi) để sản xuất cây giống sầu riêng, phục vụ cho nhu cầu phát triển cây sầu riêng ở Tây Nguyên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Verheij.E.W.M and Coronel.R.E, 1991. Plant resources of South – East Asia. No.2. Edible fruit and nuts.
  2. S.K.Mukherjee and P.K.Majumder, 1983. Vegetative Propagation of Tropical and Sub-tropical Fruit Crops.
  3. Trần Vinh, 1996. Kết quả bước đầu bình tuyển một số cây đầu dòng sầu riêng ở Đăk Lăk và thí nghiệm nhân giống vô tính.