Nguyễn Thị Thiên Trang
Bộ môn Bảo vệ Thực vật
1. Phân bố
Mọt đục cành phân bố ở khắp các vùng trồng cà phê trên thế giới và Việt Nam
Theo tác giả Wrigley (1988): có hai loài mọt đục cành gây hại nghiêm trọng trên cây cà phê vối.
– Loài Xylosandrus compactus (Eichhoff) tên gọi khác là Xyleborus morstatti Hagedor. Loài mọt đục cành này có màu đen lần đầu tiên được mô tả ở phía Nam Nhật Bản vào năm 1875, phân bố rộng ở Nam Ấn Độ, Indonesia, Việt Nam, Malaysia, Sri Lanka, một phần Châu Phi, Madagascar, Florida…
– Loài Xylosandrus morigerus (Blandf) tên gọi khác là Xyleborus coffeae Wurth. Theo Wrigley (1988) loài mọt đục cành cà phê này có màu nâu và có sự phân bố rộng ở Indonesia, Malaysia, Việt Nam, Philippin, Papua New Guinea, Sri Lanka và Brazil.
Theo Wintgens (2014): mọt đục cành xuất hiện ở nhiều nước Châu Á cũng như các nước Nhiệt đới Nam Phi cho đến Zimbabwe.
Tại Việt Nam, mọt đục cành phân bố khắp tại các vùng trồng cà phê: Miền Bắc (Nguyễn Sỹ Nghị Và ctv,1996), Tây Nguyên (Võ Chấp, 1991; Cây cà phê ở Việt Nam, 1999)…
2. Đặc điểm hình thái
Tại các quốc gia trên thế giới, mọt đục cành được công bố có các đặc điểm hình thái khác nhau, tùy thuộc vào loài và điều kiện sinh sống của mọt đục cành.
Mọt trưởng thành cái có kích thước nhỏ màu nâu đen, cơ thể hình trụ, chiều dài 1,5 – 2,0 mm, chiều rộng 0,75 mm, con trưởng thành đực tròn và nhỏ hơn có chiều dài khoảng 1 mm và chiều rộng là 0,5 mm. Ấu trùng màu trắng kem, đầu màu nâu, cong, không có chân và dài khoảng 2 mm (Walle và cộng sự, 2007).
Con đực màu nâu sẫm có chiều dài cơ thể là 2 mm và không biết bay. Con cái dài 4 – 5 mm. Trứng đẻ trong tổ (Wintgens, 2014).
Mọt trưởng thành là bọ cánh cứng rất nhỏ, hình bầu dục, con cái đen bóng, con đực nâu xám, dài trung bình từ 0,9 – 1,6 mm. Trên mình có nhiều lông mềm màu hung trông rất rõ qua kính lúp. Con cái có cánh màng, con đực không có cánh màng nên không thể bay ra khỏi tổ và do đó con cái mới đục cành cà phê (Võ Chấp, 1991; Cây cà phê ở Việt Nam, 1999).
![]() |
![]() |
Ảnh 1. Con mọt trưởng thành đục cành |
Ảnh 2. Ấu trùng mọt đục cành |
(Nguồn: Bộ môn Bảo vệ Thực vật – Wasi, 2017)
3. Tác hại
![]() |
![]() |
Ảnh 3. Cành cà phê bị mọt gây hại |
Ảnh 4. Lỗ đục của mọt đục cành |
(Nguồn: Bộ môn Bảo vệ Thực vật – Wasi, 2017)
* Trên thế giới
Nghiên cứu của Wrigley (1988) cho rằng: Xylosandrus compactus đục vào các cành non của cây, làm chết cành trong vài tuần. Vào thời kỳ kiến thiết cơ bản, việc chết khô cành làm giảm sự phát triển của cây và hình thành quả của cây. Ở thời kỳ kinh doanh, cành có thể bị khô và gãy do sức nặng của quả khi cành bị mọt tấn công. Trên cà phê vối Robusta nó gây thiệt hại nghiêm trọng, làm giảm 20% năng suất.
Cả cà phê chè và cà phê vối đều bị mọt đục cành tấn công (Wintgens, 2014).
* Tại Việt Nam
Mọt đục cành cà phê ((Xyleborus morstatii Hag.) đã được báo cáo gây hại tại nhiều vùng trồng chính của Việt Nam như: Miền Bắc, Tây Nguyên…
Trong 3 năm (1965 – 1976) trên nhiều nông trường cà phê chè ở Miền Bắc, đặc biệt tại hai Nông trường Sông Lô và Phú Hộ, cây cà phê bị mọt phá hại nghiêm trọng, nhiều vườn bị chết khô 2/3 số cành, sản lượng giảm trên 50% (Nguyễn Sỹ Nghị và cvt, 1996). Mọt đục cành phá hại mạnh nhất cà phê ở giai đoạn kiến thiết cơ bản, cây cà phê vối bị gây hại nặng hơn cà phê chè và cà phê mít. Mọt đục cành phá hại mạnh nhất trong mùa khô và trong những vườn cà phê rậm rạp (Vũ Cao Thái, 1999).
Nghiên cứu về mọt đục cành cà phê trong 3 năm 1989 -1991 tại Đắk Lắk cho thấy: Mọt đục cành (Xyleborus morstatii Hag.) phá hại cây cà phê chủ yếu trong giai đoạn mùa khô, nặng nhất vào tháng 11, 12 và tháng 1 năm sau. Tỷ lệ cây bị mọt trên cà phê kiến thiết cơ bản vào lúc cao điểm giao động từ 10 – 38%. Tỷ lệ cây bị mọt và mức độ cành bị hại đạt đỉnh điểm cao nhất sau khi mọt xuất hiện từ 3 – 4 tháng (chủ yếu vào tháng 12, 1). Cành cà phê bị mọt thường biểu hiện qua 3 giai đoạn: (1) Các vảy bao hình tam giác ở các đốt của cành cà phê đen lại, kèm theo sự rụng vài cặp lá ở gần lỗ đục về phía đầu cành, (2) Cành có hiện tượng héo, trên cành chỉ còn vài cặp lá về phía đầu, (3) Cành héo khô và chết (Võ Chấp, 1999; Cây cà phê ở Việt Nam, 1999).
4. Đặc điểm sinh học và tập tính
Nhiều tài liệu nghiên cứu khoa học ghi nhận: mọt thường đục vào cành có đường kính 1 – 2 cm, tạo thành những hang lỗ nhỏ trên cành, làm cành cà phê bị héo và chết. Mọt đẻ trứng trong hang, ấu trùng của mọt đục cành không ăn trực tiếp thức ăn từ cây cà phê mà chỉ ăn một loại nấm có tên là Ambrosia. Nấm này phát triển từ bào tử do con cái mang vào trong quá trình làm tổ và đẻ trứng (Wrigley, 1988; Võ Chấp , 1991; Walle và cộng sự, 2007, Wintgens, 2014).
Theo nghiên cứu của Wrigley (1988), con đực không bay và rời khỏi tổ. Con cái thường có số lượng gấp 10 hoặc 20 lần con đực. Con cái thường được thụ tinh trong tổ trước khi bay ra ngoài, đục vào cành mới để đẻ trứng.
Vòng đời của mọt đục cành 31 – 48 ngày, trung bình có 24,2 con/tổ, do đó khả năng lây lan rất nhanh trong điều kiện thời tiết thuận lợi (Võ Chấp, 1991). Nghiên cứu của Wintgens (2014) cho biết: vòng đời của mọt đục cành kéo dài từ 20 – 40 ngày.
![]() |
Ảnh 5. Mọt đục cành làm tổ trên cành cà phê |
(Nguồn: Bộ môn Bảo vệ Thực vật – Wasi, 2017)
5. Biện pháp phòng trừ
Chăm sóc để cây cà phê sinh trưởng và phát triển tốt bao gồm: bón phân cân đối và hợp lý, tạo hình để cây phát triển cân đối.
Cần phải phát hiện, cắt bỏ sớm những cành mới bị mọt đục, thu gom và đem ra ngoià vườn đốt để loại bỏ nguồn mọt. Khi cây đã bị mọt đục cành gây hại nặng thì biện pháp cắt cành cũng không mang lại hiệu quả cao (Wrigley, 1988; Võ Chấp, 1991; Walle và cộng sự, 2007; Wintgens, 2014). Cắt cành ở vị trí cách lỗ đục ít nhất 8 cm về phía trong thân.
Một vài hợp chất Pyrethrin được tổng hợp sau này có phổ hoạt động hẹp và tồn lưu trong môi trường ngắn hơn hợp chất Dieldrin, có thể hữu hiệu trong phòng trừ mọt đục cành nhưng thời gian xử lý phải trùng với thời gian vũ hóa của con cái (Wrigley, 1988). Việc phun hỗn hợp hợp chất Dieldrin và thuốc trừ sâu đạt được hiệu quả trong phòng trừ mọt đục cành (Waller và cộng sự, 2007) – tuy nhiên hiện nay thuốc này đã bị cấm sử dụng tại Việt Nam (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 1996).
Tại Việt Nam, các loại thuốc bảo vệ thực vật đăng ký mọt đục cành gồm có các hợp chất sau: Chlorpyrifos Ethyl, Chlorpyrifos Ethyl + Cypermethrin…Chỉ phun thuốc đối với vùng có dịch, phun cây bị hại (Solidaridad – scan – Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, 2015).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2016. Phụ lục II. Danh mụcthuốc bảo vệ thực vật cấm sử dụng tại Việt Nam (ban hành kèm theo Thông tư số 03/2016/TT-BNNPTNT ngày 21 tháng 4 năm 2016.
- Cây cà phê ở Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, 1999.
- Võ Chấp (1991). Điều tra nghiên cứu mọt đục cành cà phê vùng Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk giai đoạn 1989 – 1991. Viện Nghiên cứu cà phê.
- Nguyễn Sỹ Nghị và ctv (1996). Cây cà phê Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội
- Vũ Cao Thái (1999). Kỹ thuật bón phân cho cây cà phê. Nhà xuất bản Nông nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh.
- Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, 2015. Bộ bài giảng và công cụ bài giảng về sản xuất cà phê bền vững.
- Walle J.M và cộng sự (2007). Coffee pests, diseases and their management, tr 58 – 61.
- Wrigley Gordon (1988). Coffee, tr 367 – 368.
- Wintgens J. N. (2014). Coffee: Growing, Processing, Sustainable Production, tr 439 – 440.