TS. Trương Hồng
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên – WASI
- Giới thiệu
Năm 2016 là năm có tình hình khô hạn khốc liệt nhất ở Tây Nguyên trong vòng 30 năm qua. Tình hình hạn hán kéo dài đã làm cho nguồn nước tưới cho cây trồng bị thiếu hụt và diện tích cà phê cũng như các loại cây trồng khác bị ảnh hưởng lên đến hàng trăm ngàn ha.
Theo số liệu thống kê sơ bộ tại 5 tỉnh Tây Nguyên có khoảng 165.000 ha cây trồng nông nghiệp bị tác hại của hạn hán; chủ yếu là cây cà phê với 110.000 ha bị ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau. Đăk Lăk là tỉnh chịu ảnh hưởng trầm trọng của hạn hán với diện tích cà phê ước khoảng > 7.000 ha, trong đó khoảng 5.000 ha bị thiệt hại nghiêm trọng, tiếp đến là Đăk Nông và Gia Lai.
Hiện nay một số vùng ở Tây Nguyên đã bắt đầu có những cơn mưa chuyển mùa như ở Đăk Nông, Đăk Lăk, Gia Lai…, tuy lượng mưa chưa lớn, song cũng đáp ứng được phần nào nhu cầu nước cho cà phê và tạo điều kiện cho cà phê có thể phục hồi được sau ảnh hưởng của hạn hán.
- Kỹ thuật phục hồi sản xuất cà phê sau mùa hạn hán kéo dài
Tình trạng hạn hán kéo dài ở vùng Tây Nguyên trong thời gian qua (từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 4 năm 2016) đã làm ảnh hưởng đến việc phân hóa mầm hoa, ra hoa, đậu quả, rụng quả và sinh trưởng của cây cà phê (cành yếu, lá nhỏ, vàng, khô và rụng). Do vậy cây cà phê bị suy yếu, nguy cơ dẫn đến chết cây, rụng cành, cây bị dù và giảm năng suất nghiêm trọng có nguy cơ ảnh hưởng đến năng suất các năm sau. Để khôi phục lại sức sản xuất của vườn cây cần phải có thời gian và phải áp dụng các biện pháp kỹ thuật phù hợp thì mới mang lại hiệu quả mong đợi.
2.1. Đối với vườn cà phê bị hạn nặng, lá, cành đã bị khô, rụng trầm trọng và không có khả năng cho thu hoạch vụ 2016 nên cưa đốn phục hồi hoặc ghép cải tạo
(i) Đối với vườn cà phê cưa đốn phục hồi
Trường hợp cưa đốn phục hồi để tái tạo lại hệ thống thân cành mới khi năng suất vườn cà phê các năm trước cao (4 – 5 tấn nhân/ha), cây giống cho năng suất khá và đồng đều.
– Để thuận lợi cho việc vệ sinh đồng ruộng và thao tác khi cưa, cần rong tỉa cành trước khi tiến hành cưa đốn.
– Thời điểm cưa đốn: ngay trong tháng 5, nên cưa càng sớm càng tốt để tranh thủ thời gian dài trong mùa mưa giúp cây sinh trưởng tốt và cây sớm cho quả.
– Kỹ thuật cưa: cưa cách mặt đất từ 35 – 40 cm và nghiên khoảng 40 – 45o.
– Sau khi cưa đốn phục hồi thì áp dụng chế độ cải tạo hệ thống rễ, trồng xen cải tạo đất, nuôi chồi, tạo hình, bón phân, phòng trừ sâu bệnh theo quy trình đã khuyến cáo.
– Đối với chế độ tạo hình đơn thân có hãm ngọn nên nuôi 2 chồi phân bố đều 2 bên gốc và cách vết cưa khoảng 10 cm.
– Đối với chế độ tạo hình đa thân không hãm ngọn nuôi từ 4 – 5 chồi và phân bố đều quanh gốc ghép.
– Cần duy trì hoặc tái lập hệ thống cây đai rừng và cây che bóng lâu dài (muồng đen, keo dậu Cu ba hoặc các loại cây ăn quả…) cho vườn cà phê
(ii) Đối với vườn cà phê ghép cải tạo thay giống mới
Trường hợp ghép cải tạo khi vườn cà phê có bộ giống không tốt, những năm trước cho năng suất không cao (khoảng 2 – 3 tấn nhân/ha), nhân nhỏ… nhưng không bị bệnh thối rễ. Việc ghép cải tạo thay giống tốt nhất đối với vườn cà phê < 20 năm tuổi, cây sinh trưởng khỏe.
– Thời điểm cưa đốn: ngay trong tháng 5, nên cưa càng sớm càng tốt để tranh thủ ghép càng sớm càng tốt.
– Kỹ thuật cưa: cưa cách mặt đất từ 35 – 40 cm và nghiên khoảng 40 – 45o.
– Kỹ thuật nuôi chồi: sau khi cưa, chọn chồi khỏe và nuôi ở vị trí cách vết cưa khoảng 10 cm. Số lượng chồi nuôi làm gốc ghép từ 4 – 5.
– Dùng các giống cà phê vối chọn lọc đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận như TR4, TR5, TR6, TR7, TR8, TR9….
– Áp dụng kỹ thuật ghép nêm nối ngọn. Có thể áp dụng phương pháp ghép kín hoặc ghép hở.
– Sau khi ghép sống thì chăm sóc theo quy trình đã khuyến cáo (tạo hình, tưới nước, bón phân, phòng trừ sâu bệnh hại…).
– Lưu ý ghép thay thế các cây cà phê đã ghép sống nhưng do quá trình tiếp hợp không tốt (vết ghép bị u sưng, sinh trưởng cây ghép kém, biểu hiện thiếu kẽm nặng….).
– Cần nhổ bỏ các cây cà phê sinh trưởng kém, có biểu hiện bị bệnh rễ, sau đó xử lý đất và tiến hành tái canh.
– Cần duy trì hoặc tái lập hệ thống cây đai rừng và cây che bóng lâu dài (muồng đen, keo dậu Cu ba hoặc các loại cây ăn quả…) cho vườn cà phê
2.2. Đối với vườn cà phê bị ảnh hưởng của hạn hán ở mức độ nhẹ năng suất có thể bị giảm từ 20 – 50 %
– Duy trì hệ thống cây bóng, đai rừng (không rong tỉa) và lớp thảm tàn dư thực vật trên lô để giữ ẩm, hạn chế bốc thoát hơi nước.
– Cắt bỏ các cành khô, cành bị rụng lá, cành vòi voi để giúp cây cà phê tập trung dinh dưỡng nuôi các cành mang quả, hạn chế rụng quả.
– Lưu ý đánh chồi vượt kịp thời để giúp cây cà phê sinh trưởng khỏe.
– Trường hợp cây bị khuyết tán, cần tạo hình bổ sung tán.
– Phun phân bón lá chuyên dùng cho cây (như NUCAFE) trong trường hợp đất không đủ ẩm để bón phân nhằm cung cấp dinh dưỡng cho cây phục hồi tình trạng sức khỏe sau khô hạn và hạn chế rụng quả cà phê. Nên phun ít nhất 2 lần, cách nhau khoảng 15 – 20 ngày. Nồng độ theo khuyến cáo của nhà sản xuất.
– Sau khi đất đủ ẩm thì bón phân cho cây. Lượng phân theo khuyến cáo của từng địa phương hoặc các cơ quan khoa học và nên chia làm 2 lần bón (đối với đạm và kali) cho đợt phân đầu mùa mưa để giúp cây cà phê nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón, cây hấp thu được nhiều dưỡng chất và sẽ phục hồi nhanh tình trạng sức khỏe của vườn cà phê. Lân bón 100 % ở lần bón đầu tiên. Nếu sử dụng các loại phân hỗn hợp NPK cần chọn loại phân phù hợp với cà phê kinh doanh giai đoạn đầu mùa mưa có hàm lượng đạm và lân cao, kali thấp hơn.
– Trường hợp thời tiết tiếp tục nắng hạn thì phải tiếp tục tưới nước, song lượng nước bằng 40 – 50 % so với bình thường. Không nên tưới lượng nước cao.
– Trồng bổ sung cây che bóng tầng cao hoặc các loại cây trồng xen khác như bơ, sầu riêng… (nếu mật độ không đủ so với quy trình).
2.3. Đối với các vườn cà phê có điều kiện tưới nước đầy đủ, ít bị ảnh hưởng của tình trạng khô hạn
+ Lưu ý đánh chồi vượt kịp thời giúp cây tập trung dinh dưỡng nuôi quả.
+ Cắt bỏ cành tăm, cành vô hiệu.
+ Phun phân bón lá chuyên dùng cho cà phê (NUCAFE) trong trường hợp đất không đủ ẩm để bón phân nhằm cung cấp dinh dưỡng cho cây, hạn chế rụng quả cà phê. Nên phun ít nhất 2 lần, cách nhau khoảng 25 – 30 ngày.
+ Sau khi đất đủ ẩm thì bón phân đợt 1cho cây. Lượng, tỷ lệ N:P:K theo khuyến cáo của từng địa phương hoặc các cơ quan khoa học. Vào tháng 6, 7 nên phun bổ sung phân bón lá chuyên dùng cho cà phê giúp cây sinh trưởng khỏe, giảm rụng quả và tăng quá trình tích lũy chất khô, tăng trọng lượng hạt.
– Trường hợp thời tiết tiếp tục nắng hạn thì phải tiếp tục tưới nước, song lượng nước bằng 30 – 40 % so với bình thường. Không nên tưới lượng nước cao.
– Trồng bổ sung cây che bóng tầng cao hoặc các loại cây trồng xen khác như bơ, sầu riêng… (nếu mật độ không đủ so với quy trình).
2.4. Phòng trừ rệp sáp hại quả kịp thời
Mùa khô nóng, kết hợp có vài cơn mưa chuyển mùa là điều kiện rất thuận lợi cho rệp sáp hại quả phát triển nhanh và mạnh. Cần kiểm tra vườn cây thường xuyên để phát hiện kịp thời rệp sáp xuất hiện gây hại nhằm có kế hoạch phòng trừ đạt hiệu quả kinh tế và môi trường.
– Khi rệp mới xuất hiện với tỷ lệ cành bị hại còn thấp có thể cắt bỏ các cành bị rệp, thu gom và đưa ra ngoài vườn để tiêu hủy.
– Khi thấy khoảng 10 % số chùm quả trên cây có rệp thì tiến hành phun thuốc. Để thuốc có hiệu quả cao nên dùng máy bơm cao áp xịt mạnh nước vào chùm quả có rệp để rửa trôi lớp sáp bao phủ trên cơ thể rệp, sau đó mới tiến hành phun thuốc kỹ vào chùm quả để thuốc ngấm vào thì hiệu quả phòng trừ rệp sáp sẽ cao hơn.
– Sử dụng một trong các loại thuốc sau: Chlopyrifos Ethyl (Mapy 48 EC), Profenofos (Selecron 500 EC); Cypemethrin + Profenofos (Polytrin P 440 EC); Spirotetramat (Movento 150 OD); Chlorpyrifos ethyl + Imidacloprid (Fidur 220 EC)… theo nồng độ hướng dẫn trên bao bì. Phun thuốc 2 – 3 lần cách nhau 7 – 10 ngày.
– Chú ý chỉ nên phun cây có rệp, phun kỹ vào các chùm quả sao cho thuốc có thể tiếp xúc được rệp. Do rệp nằm sâu bên trong cuống quả và còn được lớp sáp không thấm nước bên ngoài bảo vệ./.