TS. Trương La,
Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên
Trong thời gian qua, từ nhiều nguồn kinh phí khác nhau: ngân sách nhà nước, ngân sách tỉnh, kinh phí của cơ sở… Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên đã nghiên cứu và chuyển giao vào sản xuất các tiến bộ kỹ thuật về phát triển chăn nuôi bò thịt, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp của tỉnh Đắk Lắk. Một số kết quả nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật thuộc lĩnh vực chăn nuôi bò thịt như sau:
1.Lai tạo bò lai hướng thịt chất lượng cao
Nghiên cứu lai tạo bò lai theo hướng chất lượng cao tại Đắk Lắk đã được WASI tiến hành liên tục. Các công thức lai sử dụng các giống cao sản gồm: Brahman, Drought Master, Limousine… bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo và phối giống trực tiếp. Kết quả các con lai đều có khối lượng và chất lượng thịt cao hơn bò Laisind. Một số kết quả cụ thể như sau:
Năm 2007 – 2009, đã cho lai giữa các giống bò đực hướng thịt chất lượng cao là Brahman, Drougt Master, Limousine với cái Laisind tại huyện Ea Kar, kết quả khối lượng lúc 20 tháng tuổi của các con lai đạt 296 – 330 kg (bò Laisind chỉ đạt 240,4 kg). Tỉ lệ thịt xẻ và tỉ lệ thịt tinh các nhóm bò lai hướng thịt đều cao hơn bò Laisind (tỉ lệ thịt xẻ: 49,7 – 53,3%/42,3%; tỉ lệ thịt tinh: 40,5 – 44,5%/38,1%).
* Các giá trị trung bình trong cùng 1 hàng có chỉ số trên bằng chữ khác nhau thì sai khác đáng kể về mặt thống kê (P<0,05).
Trong khuôn khổ dự án SXTN cấp Nhà nước, đã sử dụng tinh bò đực giống Brahman và Red Sind để phối giống cho đàn bò Laisind tại tại huyện Krông Năng và Cư M’gar. Kết quả đã có 892 con bò lai Zêbu ra đời. Khối lượng bò lai lúc 24 tháng tuổi bình quân: 229,1 kg/con tăng hơn so với bò địa phương là 25,2%.
Trong chương trình Nghiên cứu và phát triển KHCN tỉnh Đắk Lắk với dự án: “Ứng dụng các quy trình công nghệ và giải pháp thị trường nhằm xây dựng mô hình phát triển chăn nuôi bò thịt tại một số xã đặc biệt khó khăn ở 2 huyện Ea Súp và Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk” thực hiện từ tháng 5/2015 đến 6/2018, đã sử dụng đực giống Brahman cho phối giống trực tiếp với đàn bò Laisind được tuyển chọn tại địa phương. Kết quả đã có 54 con bò lai ra đời và khối lượng bò lai như sau:
Khối lượng bò lai Brahman lúc 12; 15 tháng tuổi đạt 174,9 kg/con và 194,3 kg/con, tăng hơn so với bò Laisind tương ứng là 22,6% và 15,8%.
Từ những kết quả trên, WASI đã xây dựng và chuyển giao thành công 02 quy trình: “Quy trình lai tạo bò thịt chất lượng cao” và “Quy trình lai tạo bò lai Zêbu” cho tỉnh Đắk Lắk và vùng Tây Nguyên.
2. Vỗ béo bò thịt
Năm 2008, đã sử dụng khẩu phần phối trộn các nguyên liệu có sẵn tại địa phương để nuôi vỗ béo các nhóm bò lai tại huyện Ea Kar. Kết quả cho thấy các nhóm bò lai hướng thịt chất lượng cao tăng khối lượng khá cao. Bò lai Drought Master đạt: 827 g/con/ngày; bò lai Limousine đạt: 792 g/con/ngày; bò lai Brahman: 786 g/con/ngày.
* Các chữ cùng kí hiệu ở hàng ngang biểu thị sự không sai khác giữa các số trung bình (P>0,05)
Trong năm 2008 và 2009, trong khuôn khổ dự án SXTN cấp Nhà nước phối hợp với Viện Chăn nuôi, WASI đã vỗ béo bò thịt bằng thức ăn tinh hỗn hợp kết hợp với thức ăn thô xanh cho 130 con bò tại 2 xã Ea Đar và Ea Ô, huyện Ea Kar, kết quả bò tăng khối lượng bình quân đạt 730 g/con/ngày.
Sử dụng phụ phẩm nông nghiệp (vỏ ca cao, thân cây ngô và lõi ngô) để vỗ béo bò tại huyện Ea Kar từ năm 2005 – 2012, bò tăng khối lượng trung bình: 633 – 745 g/con/ngày.
Tiến hành vỗ béo bò thịt tại 2 huyện Buôn Đôn và Ea Súp năm 2017 – 2018, kết quả bò tăng khối lượng trung bình 650 g/con/ngày và hiệu quả kinh tế mang lại khá cao, bình quân mỗi con thu về sau 2 tháng là 1.590.000 đ/con.
Từ kết quả nghiên cứu đó đã chuyển giao thành công “Quy trình vỗ béo bò thịt” vào sản xuất.
3. Phát triển cỏ trồng phục vụ chăn nuôi
WASI đã khảo sát và xây dựng tập đoàn các giống cây thức ăn gia súc, trong đó có 6 giống phù hợp trong điều kiện của Đắk Lắk cho năng suất và tính chịu hạn cao, gồm: VA 06, Ghi nê (cỏ Sả – Panicum maximum), Mulato II, cỏ Ruzi (Brizantha ruuinensis), Paspalum (Paspalum atratum); đối với giống cỏ họ đậu có giống Stylo (Stylosanthes guianensis).
Chuyển giao kỹ thuật để trồng cỏ tại huyện Ea Kar, Lắk, Krông Năng, Ea Súp, Buôn Đôn (Đắk Lắk), các giống cỏ đạt năng suất cao. Cỏ VA06: 330,9 tấn/ha, có nơi đạt đến 550 tấn/ha; cỏ Voi: 298,1 tấn và Ghi nê: 174,9 tấn/ha.
Đã chuyển giao thành công “Quy trình kỹ thuật trồng và sử dụng một số giống cỏ chăn nuôi cao sản” vào các hộ chăn nuôi tại Đắk Lắk.
4. Chế biến bảo quản thức ăn cho bò
Việc chế biến thức ăn cho bò ở Đắk Lắk chủ yếu được ứng dụng công nghệ sinh học bằng biện pháp ủ chua, ủ urê đối với cỏ và một số phụ phẩm nông nghiệp như rơm, cây ngô, áo ngô sau thu hoạch, vỏ ca cao, vỏ xơ mít, vỏ áo ngô…. Với các biện pháp này, thức ăn được bảo quản được từ 3 tháng đến 1 năm, chất lượng thức ăn được bảo đảm. Sử dụng thức ăn đã qua chế biến nuôi bò, tăng trọng của bò và hiệu quả kinh tế mang lại cao.
Sử dụng bột vỏ ca cao khô nuôi bò với tỉ lệ 25%; 30% và 35% thay thế một phần bột ngô trong khẩu phần nuôi vỗ béo bò cho tăng trọng bình quân 750 g/con/ngày. Chênh lệch thu chi hơn so với nuôi bò sử dụng bột ngô. Khi ủ chua vỏ quả ca cao, thời gian bảo quản được trên 90 ngày và thức ăn có chất lượng tốt. Cho bò ăn bổ sung vỏ ca cao ủ cho tăng trọng cao.
Trong những năm 2014 – 2016, WASI đã phối hợp với Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Đắk Lắk đã sản xuất thành công chế phẩm lên men Lactic dùng để ủ chua các phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn cho bò, bước đầu cho thấy thức ăn ủ có thời gian bảo quản lâu, chất lượng tốt, bảo đảm đủ tiêu chuẩn để làm thức ăn cho bò trong mùa khô. Tạo ra chế phẩm sinh học mới tại địa phương, có chất lượng tốt và chủ động trong việc tạo nguồn thức ăn cho bò, nhằm phát triển chăn nuôi bò bền vững và giảm được ô nhiễm môi trường.
Đã chuyển giao thành công “Quy trình kỹ thuật chế biến cỏ và phụ phẩm làm thức ăn cho bò” vào sản xuất tại Đắk Lắk. Đặc biệt là kỹ thuật ủ rơm lúa tươi và thân cây ngô sau thu hoạch cho hộ đồng bào dân tộc tại chỗ huyện Ea Kar.
5. Xây dựng các mô hình ứng dụng KH&CN trong chăn nuôi bò thịt
WASI đã tiến hành nghiên cứu xây dựng một số mô hình chăn nuôi bò ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật gồm: nuôi bò lai hướng thịt, trồng cỏ cao sản, chế biến thức ăn, vỗ béo bò và vệ sinh an toàn dịch bệnh tại Đắk Lắk, hiệu quả kinh tế và môi trường của các mô hình mang lại cao, cụ thể như sau:
– Mô hình chăn nuôi bò thịt dưới tán rừng tại huyện Ea Súp, Đắk Lắk: Mô hình có tính bền vững và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn sản xuất đại trà là 25%.
– Mô hình chăn nuôi bò tại hộ đồng bào dân tộc tại chỗ tại huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk: Mô hình nuôi bò có áp dụng các tiến bộ kỹ thuật cho thu nhập tăng thêm so với chăn nuôi truyền thống là 60,8%.
– Mô hình chăn nuôi bò lai Zêbu tại huyện Krông Năng và Cư Mgar (Đắk Lắk): tiền lãi thu về cao hơn nuôi bò địa phương từ 25 – 30%.
– Mô hình chăn nuôi bò lai theo hướng chất lượng cao tại 2 huyện Buôn Đôn và Ea Súp: tổng thu tăng thêm của mô hình cao hơn mô hình sản xuất truyền thống là 998.140.000 đồng.
![]() |
![]() |
Hình 1. Bò lai Brahman |
Hình 2. Bò lai Drought Master |
![]() |
![]() |
Hình 3. Bò lai Limousine |
Hình 4. Phát triển trồng cỏ nuôi bò |
![]() |
![]() |
Hình 5. Hướng dẫn kỹ thuật ủ chua rơm lúa làm thức ăn cho bò |
Hình 6. Vỗ béo bò |