Kết quả bước đầu thí nghiệm ghép cải tạo Bơ bằng phương pháp ghép nêm nối ngọn

Hoàng Hải Long, Nguyễn Thị Ngọc Hà

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Cây bơ là cây ăn quả có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao, bởi vậy việc chọn tạo giống bơ đã được nhiều nước trên thế giới quan tâm, chú ý và Việt Nam cũng đang trong quá trình tuyển chọn giống bơ bằng con đường nhập nội để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của thị trường về năng suất và chất lượng. Trong những năm gần đây Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên đã tiến hành thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu về chọn lọc giống bơ và đã chọn lọc ra được nhiều giống tốt như: Booth 7, Reed, TA1, …vv. Đây là các giống có năng suất khá cao và ổn định, chất lượng tốt, rải vụ và thích ứng rộng trên các vùng trồng chính tại Tây Nguyên. Các giống này hiện đang được đưa vào sản xuất bằng phương pháp trồng cây ghép. 

Hiện nay vẫn còn có một diện tích bơ lớn trong giai đoạn kinh doanh được trồng bằng các giống cũ, giống chất lượng kém nên hiệu quả sản xuất không cao, không đáp ứng được yêu cầu tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu. Chính vì vậy việc thay thế các giống này bằng những bộ giống mới có năng suất, chất lượng là rất cần thiết.

Ngoài ra, trong sản xuất bơ hiện nay phương pháp ghép nêm nối ngọn đã được nông dân thực hiện để thay thế các giống kém chất lượng bằng những giống mới chất lượng tốt hơn. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu cụ thể nào để đánh giá tính hiệu quả của các phương pháp này với những giống bơ mới.

Xuất phát từ thực tế trên, thí nghiệm: “Nghiên cứu đánh giá hiệu quả ghép cải tạo trên hai giống bơ Reed và Booth 7 bằng phương pháp ghép nêm nối ngọn” đã được thực hiện.

2. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

2.1. Đối tượng, quy mô, địa điểm và thời gian thực hiện

Đối tượng nghiên cứu:

          + Chồi giống bơ Reed và Booth7

          + Vườn bơ ghép trồng năm 2007 kém hiệu quả (các giống Hass, TA5, …)

– Quy mô: 02 ha

– Địa điểm: khu thực nghiệm của Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây Nguyên.

– Thời gian: 01/2016 – 12/2016

2.3. Phương pháp nghiên cứu

– Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối hoàn toàn ngẫu nhiên, 2 công thức (tương ứng với 2 giống là Reed và Booth 7), 3 lần lặp lại. Cụ thể:

Công thức

Giống

LL 1

LL2

LL3

Tổng số cây

CT1

Booth 7

37

34

51

122

CT2

Reed

31

21

29

81

– Các bước thực hiện:

            + Cưa đốn vườn cây (18/12/2015)

            + Tiến hành ghép (tháng 3/2016)

            + Chăm sóc, theo dõi, đánh giá khả năng sinh trưởng của chồi.

2.4.  Chỉ tiêu và phương pháp theo dõi

* Theo dõi sau khi ghép:

– Khả năng bật chồi của từng giống: sau khi ghép 30 ngày đếm tổng số chồi đã bật chồi của các cây đã đánh dấu (15 cây/công thức) của công thức thí nghiệm.

– Đánh giá tỷ lệ chồi sống sau ghép: Sau khi ghép 30 ngày đánh giá tỷ lệ sống của chồi ghép. Đếm số chồi ghép bị chết trên các chồi đã được đánh dấu sau ghép trong mỗi công thức, tiếp tục theo dõi sau ghép 9 tháng.

– Đánh giá chỉ tiêu sinh trưởng: Đánh dấu 15 cây/công thức, mỗi cây đánh dấu 3 chồi để theo dõi các chỉ tiêu sinh trưởng của chồi vào các tháng 1, 3, 6 và 9 tháng sau ghép.

            + Đường kính chồi ghép: Đo tại ví trí phía trên vết ghép 2 – 3 cm, sử dụng thước kẹp đo đường kính hai lần vuông góc nhau rồi tính trị số trung bình.

            + Chiều cao cây: Sử dụng thước dây đo từ vị trí ghép tới đỉnh sinh trưởng của phần thân ghép.

2.5. Xử lý số liệu: bằng phần mềm Excel và SAS.

3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Tỷ lệ bật chồi trong các công thức thí nghiệm sau khi ghép 30 ngày

Bảng 1. Tỷ lệ bật chồi của 2 công thức thí nghiệm

Công thức

Tỷ lệ bật chồi (%)

CT1

47,22b

CT2

50,83a

Trung bình

49,03

LSD0,05

0,00

Sau ghép 30 ngày tỷ lệ bật chồi của 2 công thức thí nghiệm có sai khác. Trong đó công thức 2 có xu hướng bật chồi 50,83 % cao hơn có ý nghĩa thống kê so với công thức 1 (47,22 %), trung bình đạt 49,03 %.

3.2. Tỷ lệ sống của chồi sau ghép

Bảng 2. Tỷ lệ sống của chồi sau ghép

Giống

Tỷ lệ sống của chồi sau ghép (%)

1 tháng

9 tháng

CT1

87,78

68,89

CT2

88,18

82,53

Trung bình

87,98

75,71

LSD0,05

NS

NS

Bảng 3 cho thấy, có sự sai khác về tỷ lệ sống của chồi sau ghép (1 tháng và 9 tháng) ở các công thức thí nghiệm. Công thức 2 tỷ lệ sống có xu hướng cao hơn công thức 1, tuy nhiên sự sai khác này không có ý nghĩa về mặt thống kê. Trung bình tỷ lệ sống của chồi sau ghép 1 tháng là 87,98 %, giao động 87,78 – 88,18 %, sau 9 tháng trung bình đạt 75,71 % giao động từ 68,89 – 82,53 %.

3.3. Tình hình sinh trưởng của chồi sau ghép

Bảng 3. Chiều cao của chồi sau ghép

Công thức

Chiều cao của chồi sau ghép (cm)

1 tháng

3 tháng

6 tháng

9 tháng

CT1

15,22b

57,07

105,84

185,76a

CT2

22,17a

48,53

100,72

165,60b

Trung bình

18,69

52,80

103,28

175,68

LSD0,05

1,98

NS

NS

18,57

Về chiều cao của các công thức thí nghiệm (bảng 4) cho thấy, sai khác về chiều cao của các công thức thí nghiệm theo thời gian là có ý nghĩa về mặt thống kê.

Sau ghép 1 tháng, công thức 2 sinh trưởng về chiều cao (22,17 cm) tốt hơn có ý nghĩa so với công thức 1 (15,22 cm).

Tuy nhiên sau 3, 6 và 9 tháng ghép công thức 1 lại có xu hướng sinh trưởng về chiều cao tốt hơn so với công thức 2. Theo đó, sai khác này có ý nghĩa về mặt thống kê sau 9 tháng ghép (chiều cao công thức 1 sau 9 tháng ghép 185,76 cm cao hơn có ý nghĩa so với công thức 2 165,68 cm).

Bảng 4. Đường kính của chồi sau ghép

Công thức

Đường kính của chồi sau ghép (cm)

1 tháng

3 tháng

6 tháng

9 tháng

CT1

0,80

1,91

3,00

5,13a

CT2

0,85

1.49

3,20

4,20b

Trung bình

0,83

1,70

3,10

4,66

LSD0,05

NS

NS

NS

0,19

Về đường kính của chồi sau ghép có sự biến động giữa 2 công thức theo thời gian. Trong đó sau 1 tháng ghép công thức 2 có đường kính lớn hơn công thức 1; sau 2 tháng công thức 1 lại có đường kính lớn hơn, đến 6 tháng đường kính lại có xu hướng ngược lại; tuy nhiên các sai khác này đều không có ý nghĩa về mặt thống kê.

Sau 9 tháng công thức 1 có đường kính 5,13 cm cao hơn so với công thức 2 (4,20 cm) và sai khác này là có ý nghĩa về mặt thống kê.

Nhận xét chung, sau 9 tháng khả năng sinh trưởng công thức 1 (giống Booth 7) tốt hơn so với công thức 2 (giống Reed) về cả chiều cao và đường kính gốc.

4. NHẬN XÉT

Bước đầu kết quả ghép cải tạo cây bơ bằng phương pháp ghép nêm nối ngọn, với 2 giống Booth 7 và Reed cho thấy:

– Về tỷ lệ sống chồi ghép cải tạo: công thức 2 (giống Reed) 82,53 % có xu hướng tốt hơn so với công thức 1 (giống Booth 7) 68,89 %.

– Sinh trưởng về chiều cao và đường kính gốc của công thức 1 (giống Booth 7) lần lượt đạt 185,76 cm và 18,57 cm cao hơn có ý nghĩa so với công thức 2 (giống Reed) có chiều cao 165,60 cm và đường kính gốc đạt 4,20 cm.

HÌNH ẢNH MINH HỌA

Hình 1. Ghép cải tạo bơ ngoài đồng

Hình 2. Bơ sau ghép cải tạo 24 ngày

Hình 3. Bơ Booth 7 sau ghép 9 tháng

Hình 4. Bơ Reed sau ghép 9 tháng