GS. Hoàng Hòe và câu chuyện về cây Mắc ca

Nhắc đến GS. Hoàng Hòe là nhắc đến câu chuyện về một trong những người đầu tiên đưa cây mắc ca vào Việt Nam. Trước đây, ông từng đảm nhiệm cương vị Viện trưởng Viện Điều tra Quy hoạch Rừng, Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ Bộ Lâm nghiệp, Chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật Lâm nghiệp Việt Nam. Ông đã từng cùng Cố Phó Thủ Tướng Nguyễn Công Tạn xúc tiến việc đưa cây mắc ca, một loài cây mới có giá trị về trồng tại Việt Nam bằng nhiều việc làm thiết thực.

Từ những ngày đầu thử nghiệm đến chuyến đi Úc mở ra cơ hội mới…

Đó là một câu chuyện dài có lẽ gần 20 năm, nhớ lại từ những năm 1994, anh em tại Trung tâm Giống thuộc Viện Khoa học Lâm nghiệp trồng một số cây thực sinh mắc ca tại Ba Vì (Hà Nội), thấy cây mọc tốt nhưng chỉ đậu quả khoảng 30% số cây. Đó có thể là những cây mắc ca đầu tiên được những nhà khoa học lâm nghiệp  trồng ở Việt Nam. Lúc đó chưa có ai tìm hiểu về giá trị cây mắc ca và về ngành công nghiệp mắc ca tại Úc.

Chân dung GS. Hoàng Hòe

Mãi đến năm 1998, trong một chuyến thăm Hội Lâm nghiệp Úc, GS. Hoàng Hòe đến bang New South Wales của Úc là vùng khí hậu á nhiệt đới ven biển phía đông của lục địa Úc, Giáo sư đã được đi thăm nhiều trang trại lâm nghiệp trồng cây mắc ca và nhận thấy giá trị to lớn của cây mắc ca và ngành công nghiệp mắc ca. Nhận thấy điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng của vùng này tương tự với điều kiện tự nhiên một số cao nguyên ở Việt Nam, từ đó ông đã tìm hiểu so sánh các điều kiện tự nhiên giữa hai vùng Bắc và Nam bán cầu và nảy ra ý định đưa cây mắc ca từ Úc và học hỏi kinh nghiệm Úc về trồng ở Việt Nam. Về nước ông đã  báo cáo Phó Thủ Tướng Nguyễn Công Tạn là người bạn học thân thiết trước đã từng là Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và được Ông Tạn đồng tình ngay. Hai Ông bạn có cùng một “trăn trở”, cùng một nguyện vọng là tìm đưa về nước những loài cây có giá trị cao từ nước ngoài về để làm giàu cho đất nước, xóa đói giảm nghèo cho những người sống ở những miền núi còn nhiều khó khăn. 

Thế là hai ông đã cùng nhau thực hiện một loạt công việc làm có bài bản, thiết thực đã được bắt đầu thực hiện ngay từ những năm 2000 với sự cộng tác của một số chuyên gia lâm nghiệp. Giáo sư đã cùng Cố Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn và Chuyên gia Nguyễn Hữu Lộc đi thăm nhiều Viện Nghiên cứu Lâm nghiệp tỉnh Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông – Trung Quốc, những nơi họ đã trồng và nghiên cứu nhập cây mắc ca từ Úc từ Mỹ về Trung Quốc trước Việt Nam gần 20 năm. Lúc đó họ đã có một số kinh nghiệm và đã có một số vườn ươm, vườn cây mắc ca. Hai Ông đã tìm cách nhập cây giống về trồng thử tại một số tỉnh. Nhờ một số doanh nghiệp hỗ trợ kinh phí ông Tạn và Giáo sư Hòe đã giao cho Chuyên gia Nguyễn hữu Lộc và Hoàng Lê Minh sang Trung Quốc mua cây giống đem về. Hàng nghìn cây giống ghép đã được ông Lộc và ông Minh đưa về qua biên giới theo đường “tiểu ngạch” thật khó khăn vất vả.

Và rồi từ năm 2002, những cây giống đầu tiên được phân về trồng ngẫu nhiên tại một số tỉnh Lạng Sơn, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Vĩnh Phú ,Hòa Bình, Quảng Ninh, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình. Mỗi tỉnh chỉ trồng độ vài trăm cây để thử xem đất đai khí hậu ở đó có thích hợp không. Tuy nhiên vì không có hướng dẫn kỹ thuật, lại không có kinh phí hỗ trợ người trông nên số cây sống tồn tại phát triển không đều, có nơi  chỉ còn sống sót lại khoảng mấy chục cây, có nơi thậm chí chỉ còn vài cây. Tuy nhiên đó là kết quả thực tế cho thấy mắc ca có thể sống và ra hoa kết quả tại nhiều điều kiện khác nhau ở nước ta. Nếu lúc đó mà có hướng dẫn kỹ thuật biết cách chăm sóc thì chắc chắn có kết quả tốt hơn. Từ đó nhiều nơi đã bắt đầu biết đến cây mắc ca. Ông Tạn đã biên soạn cuốn sách đầu tiên về mắc ca và cho xuất bản năm 2003 lấy tên “Mắc ca cây quả quý phát triển miền núi” là cuốn sách về mắc ca đầu tiên xuất bản ở Việt Nam. Đồng thời ông Tạn đã hướng dẫn một Công ty thuộc ngành Nông nghiệp thiết lập vườn ươm đầu tiên tại Ba Vì với sự giúp đỡ của một số người bạn Úc gửi tặng 500 kg hạt giống và 100 cây đầu dòng của một số giống tốt đầu tiên. Vườn ươm Ba Vì sau này cũng được Dự án Mắc ca hỗ trợ thêm nhiều giống mới và hướng dẫn kỹ thuật của chuyên gia Úc. 

Sau đó, Giáo sư Hoàng Hòe và cộng sự tiếp tục thực hiện một số hoạt động khoa học có ý nghĩa nền tảng quan trọng… Trung tâm Giống Lâm nghiệp (sau này là Viện Giống và Công nghệ Sinh học) thuộc Viện Khoa học Lâm nghiệp bắt đầu từ năm 2002 đã tiến hành nghiên cứu trồng khảo nghiệm giống mắc ca với sự giúp đỡ của Viện nghiên cứu Giống Nông nghiệp Úc (ACIAR). Công việc này được thực hiện suốt 10 năm dưới sự chỉ đạo chuyên môn của GS. Lê Đình Khả cộng tác với các bạn Úc TS. Craig Hardner và cộng sự. Đến năm 2018, Bộ NN & PTNT đã công nhận 10 giống mắc ca đầu tiên và công nhận cây mắc ca là cây trồng chính được phép trồng trên đất nông lâm nghiệp. Năm 2013, Viện Điều tra Quy hoạch Rừng thực hiện công trình Quy hoạch phát triển mắc ca được Bộ xác nhận kết quả quy hoạch mắc ca. Trên cơ sở đó, sau này Bộ quyết định quy hoạch trồng 35.000 ha, trước mắt đến năm 2020 trồng 10.000 ha để rút kinh nghiệm. Những công việc như trên đã tạo điều kiện cơ sở pháp lý để mắc ca có thể phát triển sau này.

…Và dấu ấn thành quả sau gần 20 năm phát triển trồng mắc ca với những bước tiến vượt bậc: 

Để có thể đi nhanh học hỏi kinh nghiệm của Úc phát triển ngành mắc ca cho Việt Nam, Giáo sư Hoàng Hòe đã cùng hai người bạn Úc rất nhiệt tình với Việt Nam là ông Martin Novak (Chủ tịch Hội Lâm nghiệp trang trại Úc SFFA) và ông Kim Wilson (nguyên Chủ tịch Hội Mắc ca Úc AMS) thiết kế được chấp nhận  một Dự án mắc ca trong Chương trình Hợp tác Nông nghiệp Việt Nam – Úc. Dự án được thực hiện trong 5 năm (2006 – 2010) đã đặt nền tảng khoa học và thực tiễn vững chắc cho sự phát triển mắc ca bền vững ở Việt Nam. Dự án với sự giúp đỡ về giống, chuyển giao kỹ thuật, ươm cây giống tốt, khảo nghiệm giống, kinh nghiệm chăm sóc vườn cây, tổ chức hợp tác giữa nghiên cứu, huấn luyện, truyền thông, triển khai sản xuất theo kinh nghiệm của Hiệp Hội Mắc ca Úc. Dự án đã cung cấp cành ghép của 10 giống tốt nhất của Úc và 4 giống chọn lọc của Trung Quốc; huấn luyện hàng trăm kỹ thuật viên và công nhân của 5 vườn ươm đầu tiên (của 2 viện nghiên cứu và 3 doanh nghiệp) về kỹ thuật tiên tiến tạo cây giống ghép và đưa hàng vạn cây giống trồng  tại nhiều nơi tạo thành hàng chục HA điểm khảo nghiệm giống và sau này là vườn cây đầu dòng để phát triển các giống tốt tại nhiều tỉnh.

Cây Mắc ca có tiềm năng và giá trị lớn về kinh tế, môi trường cũng như về lương thực.

Dự án đã  tổ chức 5 cuộc Hội thảo khoa học tại Hà Nội, Lạng Sơn, Đắk Lắk, có hàng trăm người tham dự, trong đó có nhiều nhà khoa học, nhà quản lý doanh nghiệp, cán bộ các Bộ, Tỉnh, các Sở, và một số nông dân và người quan tâm. Hội thảo đã mời nhiều chuyên gia hàng đầu của Úc, Trung Quốc, Thái Lan  giới thiệu với các người tham dự nhiều kinh nghiệm quốc tế của Úc, Trung Quốc, Thái Lan…Các cuộc Hội thảo đạt kết quả rất tốt giúp cho truyền thông về cây mắc ca ở Việt Nam có nhiều thông tin chính xác, thiết thực. Đồng thời cũng là dịp để các nhà nghiên cứu và nông dân doanh nghiệp Việt Nam giới thiệu những kinh nghiệm bước đầu, nhiều câu hỏi đã được trao đổi thảo luận, giải đáp. Đó là những kinh nghiệm đầu tiên cho ngành mắc ca Việt Nam đi nhanh đúng hướng. Năm 2010, bài báo cáo khoa học đầu tiên được trình bày tại Hội nghị của Bộ NN & PTNT tổ chức Tổng kết Chương Trình Hợp tác Nông nghiệp Việt Nam – Úc tại Bắc Kạn và bài báo cáo này của GS. Hòe đã đăng tải trên Tạp chí của Bộ NN & PTNT ấn hành năm 2011. Hai cuốn sách về hướng dẫn  kỹ thuật trồng và chăm sóc mắc ca và Kinh nghiệm thế giới xây dựng phát triển ngành công nghiệp mắc ca đã được Giáo sư biên soạn và xuất bản năm 2010 và 2015 đã là những cuốn sách đầu tiên cho ngành mắc ca Việt Nam.

Tất nhiên, mọi chuyện không đến một cách nhanh chóng và dễ dàng đối với việc phát triển một loài cây như cây mắc ca. Đã có trở ngại khó khăn cho phát triển mắc ca, khi còn có nhiều người làm giống “Rởm”, để lừa bán với giá rẻ cho một số nông dân nghèo thiếu hiểu biết. Họ mua cây về trồng nhưng không có kết quả tạo sự nghi ngờ về mắc ca cho không ít người. Lại còn một số kẻ lưu manh khuếch đại tuyên truyền để một số nhà đầu tư gom tiền nói là để đầu tư trồng cây mắc ca, nhưng đã lừa đảo gây dư luận xấu cho cây mắc ca ngay từ những năm đầu. Cộng thêm vào đó là một số cán bộ, kể cả nhà khoa học thiếu thực tế và thiếu thông tin, đã lên mạng, lên đài phát biểu gây hoang mang dư luận về cây mắc ca. Tất cả những điều đó đã làm cho lãnh đạo một số địa phương, kể cả lãnh đạo Bộ có phần nghi ngại không dám mạnh dạn ủng hộ cho những người dám mạo hiểm đi tiên phong.

Nhưng, GS. Hòe và cộng sự đã không nản lòng và may mắn nhận được có được sự đồng tình công tác của nhiều bạn đồng nghiệp, nhiều nhà lãnh đạo ở Trung Ương, Bộ Nông Nghiệp, Bộ KHCN (kể cả Ban Kinh tế Trung ương Đảng, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Tỉnh ủy UBND một số Tỉnh) cũng như nhiều địa phương. Đặc biệt có nhiều Doanh nghiệp và nông dân đã nhiệt tình đi tiên phong mở đường, nhiều bạn quốc tế từ Úc, Trung Quốc, Thái Lan, Hoa Kỳ  chia sẻ kinh nghiệm và giống cây tốt. GS. Hòe lại may mắn tìm được những Nhà đầu tư, những” Mạnh thường quân” dám mạo hiểm đầu tư đi vào xây dựng một Ngành hàng mới mẻ, ngay từ những buổi đầu còn nhiều khó khăn.

Sau gần 20 năm phát triển Việt Nam đã trồng được gần 19.000 ha, trong đó trên 7.000 ha vườn cây đã cho thu hoạch 8300 tấn hạt. Mắc ca nay đã trở thành một loài cây trồng chính của ngành Lâm Nông nghiệp Việt Nam. Mắc ca đã tạo công ăn việc làm cho hàng vạn hộ gia đình nông thôn miền núi, đã xóa đói giảm nghèo cho hàng vạn hộ gia đình vùng miền núi xa xôi còn nhiều khó khăn. Mắc ca cũng đã giúp làm giàu cho một số hộ nông dân ở Tây Nguyên… Thêm nữa, mắc ca cũng đã tạo nên một diện tích thảm cây che phủ mặt đất cố định CO2 trong không khí, tạọ môt trường xanh sạch đẹp. Sự phát triển mắc ca 20 năm qua là cơ sở quan trọng để mắc ca sẽ phát triển gấp nhiều lần trong thời gian 10 năm, 20 năm hay 30 năm tới.

So với tốc độ phát triển mắc ca ở Trung Quốc: nếu tính từ năm 1980, Trung Quốc bắt đầu nhập giống từ Úc và Mỹ về Vân Nam, Quảng Đông, thì phải 30 năm sau (năm 2012) Trung Quốc mới có thu hoạch khoảng 5.200 tấn hạt. Việt Nam chỉ mất 20 năm đã đạt thu hoạch khoảng 8.000 tấn. Như vậy có thể thấy Việt Nam đã đi nhanh nhờ tiếp thu kinh nghiệm của những quốc gia đi trước, như Úc và Trung Quốc.

Chúng tôi kể lại câu chuyện cây mắc ca với 20 năm đầu phát triển tại Việt Nam để thấy rằng, đây là thành tựu có sự đóng góp của nhiều người, đặc biệt là vai trò mở đường của một số nhà khoa học trong đó có GS. Hoàng Hòe là người đã góp phần công sức quan trọng vào sự phát triển đó.
 

Tiến Đức (Việt Nam Hội nhập)

Nguồn: https://vietnamhoinhap.vn/article/gs-hoang-hoe-va-cau-chuyen-ve-cay-mac-ca—n-40561