Đánh giá hiệu quả của một số dịch chiết xuất thảo mộc đối với  tuyến trùng Meloidogyne spp. gây hại rễ cây cà phê trong điều kiện nhà lưới

Trần Ngô Tuyết Vân, Lê Thị Kim Kiều, Lê Thị Thu Trà

Phòng Thí nghiệm Trung tâm

1. Đặt vấn đề

Hiện nay, sản xuất cà phê đang đối mặt với nhiều khó khăn từ dịch hại, trong đó tuyến trùng hại rễ là vấn đề nan giải và khó xử lý. Tuyến trùng (Meloidogyne incognita, Pratylenchus coffeae) tấn công ký sinh và chích hút rễ mở đường cho nấm xâm nhập gây ra triệu chứng thối rễ và làm cho cây cà phê bị vàng úa dẫn đến chết [2].

Nhiều thí nghiệm trong phòng thí nghiệm của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên cho thấy sản phẩm chiết xuất từ cây dược liệu có tiềm năng phòng trừ tuyến trùng Meloidogyne spp. hại rễ cụ thể như  sau: Chất chiết xuất quế 0,01% sau 40 phút xử lý có 100% tuyến trùng chết và hiệu lực đạt 100%. Chất chiết xuất dã quỳ 0,02% có tỷ lệ tuyến trùng chết sau 48 h xử lý đạt 94% và hiệu lực đạt 88%. Chiết xuất sả 0,1% sau 24 h xử lý tỷ lệ tuyến trùng chết là 100% và hiệu lực đạt 100%. Sản phẩm giấm gỗ Biffa 3% có tỷ lệ tuyến trùng chết là 91% sau 48 h xử lý và hiệu lực đạt 90%.

2. Nội dung, phương pháp

* Vật liệu:

– Dịch chiết xuất vỏ cây quế

– Dịch chiết xuất cây xả chanh

– Giấm gỗ Biffa

– Dịch chiết xuất dã quỳ

– Tuyến trùng Meloidogyne spp.

– Cây cà phê vối giống có 2 – 3 cặp lá được ươm trong bầu 13 x 23 cm trên nền đất đã được hấp khử trùng.

* Phương pháp bố trí thí nghiệm

Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối đầy đủ ngẫu nhiên (RCBD), gồm 5 công thức, mỗi ô cơ sở 20 cây, nhắc lại 3 lần. Các công thức như sau:

Công thức 1: Dịch chiết  xuất vỏ cây quế 0,02%

Công thức 2: Dịch chiết  xuất dã quỳ 0,04%

Công thức 3: Dịch chiết sả 0,2%

Công thức 4: Giấm gỗ Biffa 3%

Công thức 5: Đối chứng (Không xử lý)

* Phương pháp xử lý

Tưới dung dịch chiết xuất thảo mộc theo nồng độ ở các công thức vào bầu cây (40 ml/bầu) sau khi lây tuyến trùng được 2 tháng. Công thức đối chứng được tưới 40 ml nước.

Xử lý 2 lần cách nhau 25 ngày

* Thời điểm theo dõi

Trước khi xử lý dịch chiết xuất, sau khi xử lý dịch chiết xuất 1, 2, 3 tháng.

* Chỉ tiêu theo dõi: 

– Sinh trưởng (chiều cao cây và số cặp lá).

– Tỷ lệ cây vàng lá (%).

– Chỉ số bệnh vàng lá (%)

– Mật số tuyến trùng trong rễ (con/5 g rễ) và trong đất (con/ 100 g đất)

– Tỷ lệ rễ u sưng do tuyến trùng (%)

+ Đánh giá hiệu lực của dịch chiết (%) sau mỗi đợt theo dõi

         

H: Hiệu lực của thuốc

Ta: Mật số tuyến trùng ở công thức thí nghiệm sau xử lý thuốc

Tb: Mật số tuyến trùng ở công thức thí nghiệm trước xử lý thuốc

Ca: Mật số tuyến trùng ở công thức đối chứng sau xử lý thuốc

Cb: Mật số tuyến trùng ở công thức đối chứng trước xử lý thuốc

* Phương pháp xử lý số liệu

Các số liệu phân tích được tổng hợp và xử lý bằng phần mền Excel và SAS 9.1.

3. Kết quả và thảo luận

Trước xử lý, mật số tuyến trùng Meloidogyne spp. trong rễ ở các công thức tương đối đồng đều. Đến hai thời điểm theo dõi tiếp theo, mật số tuyến trùng trong rễ của công thức xử lý dịch chiết xuất vỏ cây quế 0,02% có mật số tuyến trùng thấp nhất  (159 con và 125 con). Đồng thời mật số tuyến trùng trong rễ của công thức này có sự sai khác có ý nghĩa thống kê so với công thức đối chứng.

Bảng 1. Mật số tuyến trùng Meloidogyne spp. trong rễ (con/ 5 g rễ)

Công thức

Trước xử lý

Sau xử lý 1 tháng

Sau xử lý 2 tháng

Sau xử lý 3 tháng

Dịch chiết xuất vỏ cây quế 0,02%

332

159 b

125 b

142

Dịch chiết xuất dã quỳ 0,04%

309

 184 ab

 142 ab

168

Dịch chiết sả 0,2%

323

 166 ab

 138 ab

173

Giấm gỗ Biffa 3%

367

168 b

 145 ab

220

Đối chứng (không xử lý)

378

439 a

512 a

575

CV (%)

12,77

10,85

16,35

21,17

LSD0,05

NS

0,46

0,66

NS

Ghi chú: Các giá trị trung bình được gắn các ký tự giống nhau trên cùng một cột là không khác biệt có ý nghĩa thống kê;

               NS: Không sai khác có ý nghĩa thống kê

Sau xử lý 3 tháng, mật số tuyến trùng Meloidogyne spp. trong rễ của công thức đều tăng. Công thức có mật số tuyến trùng trong rễ tăng thấp nhất là công thức xử lý dịch chiết xuất dã quỳ 0,02%, tăng 17 con. Tiếp theo là công thức xử lý dịch chiết dã quỳ 0,04%, tăng 26 con.

Hình cây ở các công thức sau xử lý 3 tháng

Bảng 2. Hiệu lực phòng trừ tuyến trùng trong rễ của các chế phẩm (%)

Công thức

Sau xử lý 1 tháng

Sau xử lý 2 tháng

Sau xử lý 3 tháng

Dịch chiết xuất vỏ cây quế 0,02%

58,79

72,13

71,88

Dịch chiết xuất dã quỳ 0,04%

48,77

65,99

64,26

Dịch chiết sả 0,2%

55,87

68,38

64,72

Giấm gỗ Biffa 3%

60,66

70,87

60,50

Hiệu lực phòng trừ tuyến trùng Meloidogyne spp.trong rễ của các chế phẩm trong điều kiện nhà lưới nằm trong khoảng 48,77% đến 71,88%. Tại cả 3 thời điểm theo dõi sau xử lý, công thức xử lý dịch chiết xuất vỏ cây quế 0,02% là công thức có hiệu lực phòng trừ tuyến trùng Meloidogyne spp. trong rễ cao nhất. Sau xử lý 1 tháng, hiệu lực của công thức này là 58,79%, hiệu lực này thấp hơn so với thí nghiệm Cù Thị Dần đã thực hiện 2016, với hiệu lực 62,07% tại 4 tuần sau xử lý [1]. Trong thí nghiệm này, công thức xử lý dịch chiết xuất vỏ quế 0,02% duy trì hiệu lực 71,88% tại 3 tháng sau xử lý.

Bảng 3. Mật số tuyến trùng Meloidogyne spp. trong đất (con/ 100 g đất)

Công thức

Trước xử lý

Sau xử lý 1 tháng

Sau xử lý 2 tháng

Sau xử lý 3 tháng

Dịch chiết xuất vỏ cây quế 0,02%

25

18

17 b

27

Dịch chiết xuất dã quỳ 0,04%

24

18

 19 ab

28

Dịch chiết sả 0,2%

28

22

 20 ab

33

Giấm gỗ Biffa 3%

27

23

 21 ab

32

Đối chứng (không xử lý)

25

54

68 a

83

CV (%)

33,16

26,32

25,25

21,15

LSD0,05

NS

NS

0,63

NS

Ghi chú: Các giá trị trung bình được gắn các ký tự giống nhau trên cùng một cột là không khác biệt có ý nghĩa thống kê;

               NS: Không sai khác có ý nghĩa thống kê

Từ số liệu mật số tuyến trùng trong rễ, trong đất nhận thấy: công thức xử lý dịch chiết xuất vỏ quế 0,02% có mật số tuyến trùng thấp nhất tại các thời điểm theo dõi sau xử lý chế phẩm. Công thức xử lý dịch chiết sả 0,2% đứng thứ hai về mật số tuyến trùng trong rễ và tổng mật số tuyến trùng trong đất và rễ, đứng thứ ba về mật số tuyến trùng trong đất. Công thức xử lý dịch chiết xuất dã quỳ 0,04% đứng thứ hai về mật số tuyến trùng trong đất và đứng thứ ba về mật số tuyến trùng trong rễ và tổng mật số tuyến trùng trong đất và rễ.

Bảng 4. Hiệu lực phòng trừ tuyến trùng trong đất của các chế phẩm (%)

Công thức

Sau xử lý 1 tháng

Sau xử lý 2 tháng

Sau xử lý 3 tháng

Dịch chiết xuất vỏ cây quế 0,02%

68,14

75,78

67,81

Dịch chiết xuất dã quỳ 0,04%

66,84

71,32

65,26

Dịch chiết sả 0,2%

64,11

73,79

64,48

Giấm gỗ Biffa 3%

61,01

72,71

64,70

Hiệu lực phòng trừ tuyến trùng Meloidogyne spp. trong đất đạt cao nhất là 75,78% của công thức xử lý dịch chiết xuất vỏ cây quế 0,02% tại thời điểm sau xử lý 2 tháng. Trong thí nghiệm của Cù Thị Dần (2016) hiệu lực của dịch chiết đối với tuyến trùng Meloidogyne spp. trong đất đã đạt 91,95% sau 4 tuần xử lý [1]. Đứng thứ hai là công thức xử lý dịch chiết sả 0,2% với hiệu lực đạt 73,79%. Công thức xử lý dịch chiết xuất vỏ cây quế tiếp tục duy trì hiệu lực cao nhất đối với tuyến trùng Meloidogyne spp. trong đất cho đến 3 tháng sau xử lý với hiệu lực đạt 67,81%. Đứng thứ hai là công thức xử lý dịch chiết xuất dã quỳ 0,04% với hiệu lực 65,26% tại 3 tháng sau xử lý.

4. Kết luận và đề nghị

4.1.   Kết luận

Công thức xử lý dịch chiết xuất vỏ cây quế 0,02% là công thức có hiệu lực phòng trừ tuyến trùng trong đất và rễ cao nhất. Hiệu lực phòng trừ tuyến trùng trong rễ và đất của công thức này sau 3 tháng xử lý là 71,88% và 67,81%. Đồng thời các chỉ tiêu về sinh trưởng (chiều cao, cặp lá), tỷ lệ cây bị vàng lá, tỷ lệ rễ bị sưng của công thức này cũng tốt nhất.

4.2.   Đề nghị

Cần tiếp tục nghiên cứu thử nghiệm các chế phẩm từ quế, dã quỳ, sả phòng trừ tuyến trùng, nấm ngoài đồng để có kết luận chính xác và ứng dụng trong sản xuất.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Cù Thị Dần, Trần Ngô Tuyết Vân, Nguyễn Hồng Phong, Lê Đăng Khoa (2015). Nghiên cứu thử nghiệm hoạt tính chiết xuất vỏ quế phòng trừ tuyến trùng và nấm gây hại cà phê và hồ tiêu. Báo cáo nhiệm vụ cấp cơ sở tại Viện KHKT NLN Tây Nguyên.
  2. Phan Quốc Sủng, Hà Minh Trung, Hoàng Thanh Tiệm, Trần Kim Loang, Trịnh Đức Minh, Công Huyền Tôn Nữ Tuấn Nam, Trương Hồng, Lê Ngọc Báu, Nguyễn Trọng Chất, Nguyễn Văn Tuất, Ngô Vĩnh Viễn, Nguyễn Văn Vấn (2001). Điều tra nghiên cứu hội chứng vàng lá cà phê và biện pháp phòng trừ. Báo cáo tổng kết – Đề tài độc lập cấp nhà nước (1997 – 2001) Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường