Với đặc điểm khí hậu và đất đai thuận lợi, Tây Nguyên nói chung và Đăk Lăk nói riêng có rất nhiều tiềm năng và lợi thế trong phát triển các cây trồng nông nghiệp giá trị cao như cà phê, hồ tiêu và cây ăn trái như sầu riêng, bơ.. Đến nay, Đăk Lăk đã hình thành những ngành sản phẩm nông nghiệp quy mô lớn, bước đầu xây dựng được thương hiệu và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu như cà phê, hồ tiêu, cao su… góp phần quan trọng nâng cao kim ngạch xuất khẩu nông nghiệp cả nước, nâng cao vị thế Việt Nam trên thế giới và khu vực. Tuy nhiên việc phát triển nông nghiệp tại tỉnh nhà hiện đang phải đối diện với nhiều thách thức trong phát triển bền vững.
Suy thoái tài nguyên đất và nước
Theo đánh giá của Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên, phần lớn đất đai đang sản xuất nông nghiệp hiện nay đang có sự biến động lớn về lý, hóa tính và cả sinh học theo hướng tiêu cực và ảnh hưởng xấu cho việc canh tác nông nghiệp. Hệ lụy của thoái hóa đất là làm suy giảm độ phì nhiêu của đất được thể hiện qua các chỉ tiêu như đất bí chặt, chua mạnh, khả năng giữa ẩm, giữ dinh dưỡng kém; hiệu quả sử dụng phân bón thấp; hệ vi sinh vật đất chủ yếu là vi sinh vật gây hại; sâu bệnh hại từ đất phát triển nhanh và mạnh ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp do năng suất, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành sản xuất cao dẫn đến nguy cơ đi ngược lại mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững trong tương lai của vùng. Cụ thể trong vòng 30 năm, đất canh tác độc canh cà phê ở Đăk Lăk đã bị chua hóa nhanh; bình quân pH đất đã giảm từ 0,5 – 1,2 đơn vị; hàm lượng các cation kiềm thổ giảm 40 – 70%; dung tích hấp thu của đất (CEC) giảm 30 – 40%; đã xuất hiện tầng tích sét ở độ sâu 30 – 40 cm; hàm lượng hữu cơ giảm 20 – 40%; đất bí chặt, thoát nước kém dẫn đến gia tăng cường độ xói mòn đất trên bề mặt sau các cơn mưa trên đất dốc. Quá trình chua hóa, giảm hàm lượng hữu cơ, các cation kiềm thổ xảy ra với tốc độ nhanh, rõ hơn trên đất canh tác cà phê có độ dốc từ 7 – 15%, trồng không có cây che bóng.
Đối với tài nguyên nước, khảo sát của Đoàn địa chất 704 cho thấy mực nước ngầm tiềm năng không còn nhiều như những năm về trước. 20m là có nước thì những năm gần đây phải đào đến 25-30m. Đối với giếng khoan thì phải khoan sâu đến gần 100m mới có nước.
Thoái hóa môi trường đất và nước ở Đăk Lăk được gắn với các nguyên nhân do phá rừng, loại bỏ thảm thực vật tự nhiên, canh tác nông nghiệp chưa hợp lý, thiếu các biện pháp bảo vệ đất, độc canh nhiều diện tích cây công nghiệp dài ngày, sử dụng quá mức các loại phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, do biến đổi khí hậu hạn hán kéo dài…
Biến đổi khí hậu đang diễn ra phức tạp
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, người dân làm nông nghiệp ở Đăk Lăk đã thấy rõ tác động của biến đổi khí hậu lên lĩnh vực trồng trọt. Các hiện tượng thời tiết cực đoan như hạn hán kéo dài, mưa lớn bất thường đã gây thiệt hại nặng nề cho nhiều diện tích cây trồng, đặc biệt các cây trồng chủ lực như hồ tiêu, cà phê… Thậm chí, cùng một thời điểm trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ghi nhận cả hai hình thái thời tiết là mưa lũ và hạn hán.
Ảnh hưởng rõ nét nhất của biến đổi khí hậu là hiện tượng mùa mưa kết thúc sớm, kết hợp với các cơn mưa muộn làm cho cây cà phê nở hoa sớm và không tập trung ảnh hưởng đến năng suất; mùa khô thì kéo dài. Ngoài ra, việc mưa quá nhiều trong một giai đoạn ngắn cũng là nguyên nhân chính cho việc phát sinh các dịch bệnh nguy hiểm như chết nhanh, chết chậm ở cây hồ tiêu. Đối với cây cà phê và cây điều, việc gia tăng nhiệt độ cực đoan trong mùa khô cũng làm ảnh hưởng đến khả năng thụ phấn, thụ tinh và đậu quả.
Không chỉ ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của cây trồng, biến đổi khí hậu còn làm suy thoái tài nguyên đất và nước, giảm hiệu quả sản xuất, ảnh hưởng tiêu cực đến người lao động. Điều này không chỉ gây thiệt hại kinh tế trước mắt mà còn gây khó khăn cho người nông dân trong quá trình chăm sóc cây trồng. Nguy hiểm hơn, về lâu dài, biến đổi khí hậu có thể phá vỡ quy luật phát triển của các loại cây trồng đã hình thành tại Tây Nguyên nói chung và Đăk Lăk nói riêng. Thực tế cho thấy, khoảng 3 năm trở lại đây, hiện tượng cà phê, hồ tiêu ra hoa trái mùa tại một số vùng trồng ngày càng phổ biến, nguyên nhân chính là do thời tiết mưa, nắng thất thường, không theo quy luật thông thường như trước đây.
Giá vật tư nông nghiệp tăng và khan hiếm lao động
Trong 5 năm trở lại đây, giá vật tư nông nghiệp tăng cao, dịch vụ máy móc, thu hoạch tăng, khan hiếm lao động dẫn đến tăng chi phí đầu tư, giảm lợi nhuận của nông dân, sản xuất mang lại hiệu quả thấp. Trong hai năm 2021-2022, giá phân bón đã tăng gấp đôi, thậm chí gấp 3 so với trước đây. Vì vậy, mặc dù giá cà phê hiện nay đã tăng kỷ lục trong 10 năm qua, hiện đang ở mức 40.000 – 43.000 đồng/kg cà phê nhân, song người trồng cà phê vẫn không có lời, thậm chí còn thua lỗ. Không chỉ phân bón, giá dầu tăng cũng ảnh hưởng lớn đến việc chăm sóc cà phê, đặc biệt làm tăng cao chi phí tưới, chế biến và vận chuyển cà phê.
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng thiếu bền vững
Trong những năm gần đây, xu hướng trồng xen cây công nghiệp và cây ăn quả lâu năm trên vườn cà phê như hồ tiêu, sầu riêng, bơ, điều… đã góp phần đa dạng hóa sản phẩm, tạo thêm việc làm, nâng cao và ổn định thu nhập cho người dân, hạn chế được những rủi do về giá cả và biến động của thị trường, góp phân ổn định diện tích cà phê. Ngoài ra, trồng xen còn có tác dụng làm cây che bóng, chắn gió cho cà phê, hạn chế bốc hơi nước, giữ ẩm cho cà phê, phát triển bền vững trong điều kiện biến đổi khí hậu. Hiện nay, diện tích trồng xen ở Đắk Lắk ước tính khoảng 81.400 ha, bằng 38,1% tổng diện tích cà phê của tỉnh.
Tuy nhiên, mặc dù Quy trình kỹ thuật trồng xen canh đã được ban hành, tuy nhiên quy trình cụ thể cho từng loại cây trồng như hồ tiêu, sầu riêng, bơ, điều,… mới bước đầu được áp dụng, do vậy một số kỹ thuật như: giống, mật độ trồng, bón phân, tưới nước, tạo hình cho cây trồng xen và cây cà phê chưa được tổng kết cụ thể để có điều chỉnh phù hợp với điều kiện địa phương. Ngoài ra, người trồng thường có xu hướng ưu tiên cây có giá trị kinh tế cao nên không tuân thủ các khuyến cáo kỹ thuật. Về kỹ thuật, thời điểm ra hoa, đậu quả của các loại cây trồng trên vườn có trồng xen là khác nhau nên gây khó khăn cho việc chăm sóc. Nếu người sản xuất chọn một cây trồng xen để ưu tiên đầu tư chăm sóc nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao theo giá trị tại thời điểm, có thể ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển, chất lượng cà phê. Hơn nữa, việc trồng xen cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm trong cà phê thiếu sự gắn kết doanh nghiệp về đầu ra cho sản phẩm nhất là vùng sâu vùng xa nên hiệu quả trồng xen chưa cao.
Việc ứng dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất chưa đồng bộ;
Theo điều tra qua nhiều năm của Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên, mặc dù đã được phổ biến quy trình kỹ thuật, vẫn có tới 60% nông dân trồng cà phê và 45% nông dân trồng tiêu sử dụng phân bón là không hợp lý, mất cân đối và 70% nông dân bón phân hóa học với liều cao hơn nhiều so với khuyến cáo và so với năng suất đạt được. Lượng phân đạm được nông dân bón cho cây thường rất cao, có khi cao hơn 300% so với khuyến cáo; tiếp đến là lượng lân cao hơn từ 50 – 200%; kali đa phần bón thấp hơn so với khuyến cáo; đặc biệt khi giá nông sản cà phê, hồ tiêu cao thì có đến 90 – 100% hộ nông dân bón phân hóa học cao hơn với mong muốn đạt được năng suất và thu nhập tối đa. Tỷ lệ hộ nông dân quan tâm đến phân hữu cơ còn thấp, chỉ khoảng 40%. Ngoài ra, người nông dân đã sử dụng các loại thuốc BVTV hóa học với số lượng, chủng loại ngày càng gia tăng; phun với nồng độ và cả liều lượng, tần suất cao hơn so với khuyến cáo; đặc biệt vào các thời điểm giá nông sản cao. Điều này dẫn đến sự nghèo kiệt về tính đa dạng sinh học; mất cân bằng về thiên địch; cân bằng hệ vi sinh vật trong đất bị phá vỡ; hình thành nhiều quần thể có hại cho đất và cây trồng; từ đó đất đai bị ô nhiễm, suy thoái, mất sức sản xuất.
Tổ chức quản lý sản xuất còn hạn chế, liên kết chuỗi giá trị gặp khó khăn, giá trị gia tăng thấp
Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đắk Lắk, với vị trí là cây trồng chủ lực và truyền thống, tuy nhiên, hình thức tổ chức sản xuất cà phê trên địa bàn Đắk Lắk chủ yếu là sản xuất cá thể, quy mô nhỏ lẻ, manh mún. Gần 90% diện tích cà phê của tỉnh là do nông dân tự trồng, chăm sóc và quản lý. Chính vì vậy, các khâu thu hái, sơ chế vẫn ở tình trạng “mạnh ai nấy làm”, nên việc kiểm soát chất lượng ở các khâu này rất khó. Hiện chỉ có khoảng trên 10% diện tích cà phê sản xuất tập trung thành vùng chuyên canh, do các đơn vị thuộc Tổng Công ty Cà phê Việt Nam, các công ty cà phê thuộc tỉnh Đắk Lắk và doanh nghiệp quản lý.
Liên kết chuỗi giá trị cũng gặp khó khăn trong bao tiêu sản phẩm đầu ra, doanh nghiệp và người nông dân chưa xích gần nhau để thương lượng, giải quyết khi giá thị trường biến động. Ngoài ra, các sản phẩm nông sản hàng hóa đều xuất khẩu thô không những giá trị gia tăng thấp mà sức cạnh tranh trong nước và quốc tế của nhiều loại nông sản sản chưa cao. Việc xây dựng thương hiệu cho các nông sản chủ lực chủ lực chưa được thực sự quan tâm. Ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất, bảo quản, chế biến nông sản chưa nhiều và chưa phổ biến.
Các nhóm giải pháp kỹ thuật cần phải giải quyết trong thời gian tới là:
– Quy hoạch vùng liên kết sản xuất, loại hình sử dụng đất dựa trên thế mạnh tự nhiên, liên kết sản xuất sử dụng tiếp cận nông nghiệp cảnh quan: cần định hướng phát triển và quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp theo cách tiếp cận cảnh quan trên nguyên tắc: đa dạng sinh học, các thành phần tự nhiên và nhân văn trong vùng có khả năng tương hỗ về sinh thái và kinh tế trong sản xuất. Trong quy hoạch, thay vì tập trung vào các địa danh hành chính, cần phải tập trung vào các vùng sản xuất lớn và các vùng lưu vực. Mỗi vùng như vậy cần phải được đánh giá toàn diện về độ phì đất, các điều kiện sinh thái, tính ổn định về mặt môi trường, hiện trạng cơ sở hạ tầng cứng và mềm phục vụ sản xuất, để từ đó đề xuất rõ loại cây trồng/nhóm cây trồng (xen canh) và biện pháp canh tác tương ứng với từng loại đất. Trong yêu cầu kỹ thuật đi kèm, cần nêu rõ các biện pháp bảo vệ đất, chống xói mòn như làm mô đất, mương, băng cây phân xanh, bậc thang, bố trí hệ thống cây trồng và luân canh cây trồng phù hợp. Đối với những nơi nguy cơ xói mòn cao như đất quá dốc, đỉnh dốc cần quy hoạch vùng tái sinh rừng, trồng rừng. Ngoài ra, cần quy hoạch tất cả cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất như hồ đập, xưởng chế biến, kho bãi và các hệ thống cung cấp vật tư đầu vào, hệ thống mua bán tiêu thụ sản phẩm… Đặc biệt, cần một cơ sở hạ tầng mềm là các chính sách, quy định với sự tham gia của các bên để đảm bảo quy hoạch sẽ được thực hiện đúng. Đối với cây cà phê, hiện nay, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã có đề án phát triển cà phê theo cách tiếp cận cảnh quan cho các tỉnh vùng Tây Nguyên. Đây là bước đi rất quan trọng để các địa phương, phối hợp với các cơ quan chuyên môn các cấp và người sản xuất xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp bền vững, từ đó, có thể nhân rộng và mở rộng hướng khai thác sử dụng đất theo hướng này ra toàn vùng.
– Áp dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật kết hợp giữa nông nghiệp chính xác và nông nghiệp thuận tự nhiên: đây là những nền tảng căn bản để sản xuất có thể dựa vào để phát triển một cách hợp lý, uyển chuyển cho từng loại hình sử dụng đất phù hợp với điều kiện địa phương và vị trí trong vùng cảnh quan trên cơ sở cân bằng các khía cạnh sản xuất và bảo tồn. Hiện nay, có rất nhiều các tiến bộ kỹ thuật đã được nghiên cứu và đưa vào sản xuất theo hướng bảo tổn và phục hồi hệ sinh thái đất, nước. Trong đó, nông dân cần thực hiện quy trình tưới nước tiến tiến, tiết kiệm theo công nghệ tưới nước nhỏ giọt hay phun mưa cục bộ kết hợp bón phân qua nước; kỹ thuật bón phân theo độ phì đất và năng suất thực; sử dụng các chế phẩm phân bón, thuốc bảo vệ thực vật công nghệ sinh học, các loại chế phẩm nano trong sản xuất… Các biện pháp nông nghiệp thuận tự nhiên cũng đang được nghiên cứu, đánh giá nhằm hỗ trợ cho việc phục hồi đất như làm cỏ tối giản; sử dụng biochar để cải tạo pH đất; tưới nước chính xác dựa trên lượng bốc thoát hơi nước của vườn cây…
– Trước mắt, với các loại cây trồng chính cần chú ý vấn đề tái canh cà phê, phát triển hồ tiêu theo hướng hữu cơ, trồng xen cây ăn trái hợp lý theo các đề án được các cơ quan chuyên môn đề xuất thực hiện trong những năm tiếp theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Phan Việt Hà, 2022, Đại ngàn Tây Nguyên & nỗi đau của đất: Các giải pháp ngắn hạn, dài hạn theo hướng bền vững, thuận tự nhiên, Báo Nông nghiệp Việt Nam, https://nongnghiep.vn/cac-giai-phap-ngan-han-dai-han-theo-huong-ben-vung-thuan-tu-nhien-d319648.html.
- Phan Việt Hà và cộng sự, 2021, Nghiên cứu xây dựng gói kỹ thuật đồng bộ từ canh tác, thu hoạch, sơ chế đến chế biến nhằm nâng cao giá trị gia tăng Cà phê, phục vụ nội tiêu và xuất khẩu, Báo cáo tổng kết, p. 236.
- Mai Phương – Ngọc Thăng, 2020, Tây Nguyên có nhiều lợi thế trở thành vùng sản xuất cây ăn quả trọng điểm, Báo Nông nghiệp Việt Nam, https://nongnghiep.vn/tay-nguyen-co-nhieu-loi-the-tro-thanh-vung-san-xuat-cay-an-qua-trong-diem-d264863.html.
- Thuận Lan – Thảo Huyền, 2021, Hướng đi nào để cà phê Đắk Lắk không chỉ là xuất thô: Thay đổi tư duy để thay đổi chất lượng, Báo Đăk Lăk, https://baodaklak.vn/kinh-te/202112/huong-di-nao-de-ca-phe-dak-lak-khong-chi-la-xuat-tho-ky-2-abb133b/
- TTXVN, 2019, Nông nghiệp Tây Nguyên thích ứng với biến đổi khí hậu, https://vnanet.vn/vi/tin-anh/tin-thoi-su-trong-nuoc-1/nong-nghiep-tay-nguyen-thich-ung-voi-bien-doi-khi-hau—bai-3-chuyen-doi-co-cau-cay-trong-4168696.html?img=4150286