Lê Thừa Hoài Sơn, Hoàng Hải Long và cộng sự
Bộ môn Hệ thống Nông nghiệp
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm vừa qua, ngành hàng cà phê Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc cả về chất lượng và sản lượng. Theo thống kê, diện tích cà phê Việt Nam hiện nay đạt trên 664.000 ha, năng suất khoảng 27 tạ/ha, sản lượng đạt xấp xỉ 1,9 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu gần 3,5 tỷ USD, chiếm 14% thị phần thế giới và hơn 10% giá trị cà phê nhân xuất khẩu toàn cầu (Cục trồng trọt, 2019).
Tuy nhiên, trong những năm gần đây do ảnh hưởng của nhiều yếu tố tác động đã và đang gây ảnh hưởng bất lợi đến sản xuất cà phê của Việt Nam. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, chi phí nhân công và vật tư đầu vào ngày càng cao, trong khi đó giá cà phê có xu hướng giảm đã làm cho hiệu quả sản xuất của cà phê thấp, đời sống của người sản xuất cà phê gặp nhiều khó khăn. Đã có nhiều nghiên cứu tìm giải pháp canh tác hiệu quả để nâng cao năng suất chất lượng cà phê cũng như mang lại hiệu quả kinh tế cho người sản xuất. Tuy nhiên,vẫn chưa có nghiên cứu đánh giá cụ thể về mức độ áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật về cơ giới hóa trong thực tế sản xuất cà phê cũng như chưa có nghiên cứu về mức hiệu quả của việc áp dụng đồng bộ canh tác cà phê theo hướng cơ giới hóa.
Để có cơ sở cho việc triển khai các nghiên cứu tiếp theo về sản xuất thiết bị máy móc phục vụ sản xuất cà phê đáp ứng nhu cầu của người sản xuất cũng như có cơ sở khoa học trong việc khuyến cáo nông dân áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất cà phê thì việc điều tra, đánh giá hiện trạng áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất cà phê là rất cấp thiết. Đây cũng là một nội dung cơ bản trong nhiệm vụ khoa học công nghệ thuộc Chương trình sản phẩm cà phê quốc gia .
2. MỤC TIÊU
Đánh giá hiện trạng áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất cà phê tại Tây Nguyên.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các vườn cà phê vối trong giai đoạn kinh doanh ổn định (7 – 15 năm tuổi) áp dụng các loại hình canh tác phổ biến tại Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
– Phương pháp thực hiện: Điều tra, phỏng vấn có sự tham gia của cộng đồng (PRA): phỏng vấn nông dân theo mẫu phiếu bán cấu trúc được thiết kế sẵn (số lượng mẫu điều tra: 150 phiếu; Sử dụng phương pháp điều tra có định hướng).
– Các chỉ tiêu thu thập đánh giá chính: Hiện trạng áp dụng cơ giới hóa trong các khâu sản xuất; Chi phí và hiệu quả kinh tế của các khâu áp dụng cơ giới hóa.
– Phương pháp xử lý số liệu: Xử lý bằng phần mềm Excel.
3.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Điều tra được thực hiện từ tháng 01 đến tháng 12 năm 2018 tại tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Mức độ áp dụng cơ giới hóa trong canh tác cà phê
Biểu đồ 1. Mức độ cơ giới hóa trong các khâu sản xuất cà phê (%)
Nguồn: Số liệu khảo sát (Nguyễn Thị Ngọc Hà và ctv., 2018).
Kết quả ở biểu đồ 1 cho thấy, có tới 46,3% hộ điều tra đã áp dụng máy móc trong khâu làm đất (để cày bừa, và múc hố). Số hộ sử dụng máy móc trong chăm sóc và sau thu hoạch chiếm tỷ lệ không cao (22,7% và 30,7%). Khâu trồng và thu hoạch hầu như không áp dụng cơ giới hóa (tỷ lệ 0 – 0,32%).
Theo đánh giá trong kỹ thuật canh tác cà phê thì bón phân và tạo hình là hai biện pháp khó áp dụng cơ giới hóa và hiện tại vẫn chưa có thiết bị cơ giới hiệu quả; Điều này thể hiện rõ trong kết quả điều tra với 100% số hộ không áp dụng cơ giới hóa trong bón phân và tạo hình. Nông dân chủ yếu áp dụng cơ giới hóa trong làm cỏ và phun thuốc bảo vệ thực vật. Tuy nhiên các máy móc này vẫn còn rất thô sơ. Việc áp dụng kỹ thuật cao hơn như sử dụng hệ thống tưới tiết kiệm kết hợp bón phân qua nước là giải pháp được Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên khuyến cáo thời gian gần đây nhằm tiết kiệm chi phí – tiết kiệm 80% công bón, 15 – 20% lượng phân bón sử dụng (Phan Việt Hà và ctv., 2016). Tuy nhiên, giải pháp này chưa được áp dụng nhiều một phần do chi phí hệ thống tưới còn cao, thiếu tính đồng bộ và chưa thực sự phát huy hiệu quả cao đối với quy mô tổ chức sản xuất nhỏ lẻ hiện nay.
Trong sản xuất cà phê thì thu hoạch là khâu cần nhiều công lao động nhất, trung bình 1 ha cà phê với năng suất 3 tấn nhân/ha thì cần đến gần 70 công thu hoạch. Không những vậy, việc thu hoạch thường thực hiện đồng loạt ở một khu vực sản xuất nên áp lực về nhân công là rất cao. Một số nước sản xuất cà phê lớn trên thế giới (Brazil) đã áp dụng cơ giới hóa trong thu hoạch để giảm áp lực nhân công, rút ngắn thời gian thu hoạch và đặc biệt là giảm chi phí, việc này được xem là đột phá trong sản xuất cà phê. Tuy nhiên kết quả điều tra cho thấy tại Việt Nam thấy hầu như chưa áp dụng, chỉ 0,32% số hộ áp dụng máy tuốt trong thu hoạch (chủ yếu tại Lâm Đồng). Sản phẩm sau thu hoạch chỉ có khâu vận chuyển là được áp dụng cơ giới hóa, các khâu chế biến hầu như chưa áp dụng cơ giới hóa một cách đồng bộ.
Từ kết quả điều tra phân tích nhận thấy có 2 nguyên nhân chính dẫn đến việc áp dụng cơ giới hóa chưa đồng bộ như hiện nay:
– Nguyên nhân khách quan: Do máy móc, trang thiết bị còn hạn chế về tính năng nên chưa thể áp dụng đồng bộ trong canh tác (chưa có máy trồng cà phê, máy tạo hình, máy thu hoạch cà phê chưa đáp ứng nhu cầu,…); Điều kiện kinh tế của nhiều nông hộ chưa cho phép áp dụng; Điều kiện của vùng sản xuất không cho phép áp dụng cơ giới hóa (đất dốc, diện tích nhỏ lẻ, hệ thống cây trồng không phù hợp để áp dụng cơ giới hóa, tập quán canh tác lâu đời khó thay đổi, …).
– Nguyên nhân chủ quan: Nhiều nông hộ có tâm lý ngại thay đổi vì chưa thấy hiệu quả thực tế của các mô hình áp dụng đồng bộ các giải pháp cơ giới hóa.
4.2. So sách chi phí áp dụng cơ giới hóa trong khâu làm đất, chăm sóc và thu hoạch
Biểu đồ 2: So sánh chi phí làm bằng tay và áp dụng cơ giới hóa trong làm hố, làm cỏ và thu hoạch
Nguồn: Số liệu khảo sát (Nguyễn Thị Ngọc Hà và ctv., 2018).
Kết quả biểu đồ 2 cho thấy, nếu áp dụng cơ giới hóa trong làm hố, làm cỏ và thu hoạch có thể tiếp kiệm được từ 1 – 5 triệu đồng/ha/khâu sản xuất, tương đương từ 32 – 55,78% chi phí sản xuất từ 3 khâu này. Từ đó có thể thấy nếu có biệt pháp thúc đẩy nông dân áp dụng cơ giới hóa một cách đồng bộ các khâu từ làm đất, chăm sóc, thu hoạch và chế biến có thể tiết kiệm được rất nhiều chi phí cho sản xuất từ đó đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho người sản xuất.
Tóm lại: Lợi ích từ việc áp dụng cơ giới hóa mang lại là rất lớn, tuy nhiên vì nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn tới việc áp dụng cơ giới hóa trong canh tác cà phê vối của nông dân chưa được phổ biến.
5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
5.1. Kết luận
Kết quả điều tra khảo sát cho thấy nông dân chỉ áp dụng cơ giới hóa trong các khâu làm đất, chăm sóc, thu hoạch (tỉ lệ thấp) và sau thu hoạch. Chưa áp dụng cơ giới hóa trong khâu trồng cà phê. Tỷ lệ các hộ áp dụng máy móc để cày bừa, và múc hố trung bình khoảng 46,3%. 100% không áp dụng cơ giới hóa trong bón phân và tạo hình. Nông dân chủ yếu áp dụng cơ giới hóa trong làm cỏ và phun thuốc BVTV. Việc áp dụng cơ giới hóa trong thu hoạch hầu như chưa áp dụng, chỉ 0,33% số hộ áp dụng máy tuốt trong thu hoạch (chủ yếu tại Lâm Đồng). Sản phẩm sau thu hoạch chỉ có khâu vận chuyển là được áp dụng cơ giới hóa, các khâu chế biến hầu như chưa áp dụng cơ giới hóa một cách đồng bộ.
5.2. Đề nghị
Đẩy mạnh nghiên cứu, sáng chế các thiết bị chuyên dụng đáp ứng yêu cầu cơ giới hóa, đặc biệt những nghiên cứu về phân bón hòa tan chuyên dùng cho cây cà phê. Liên kết, kết nối thị trường giúp nông dân dễ dàng tiếp cận. Bên cạnh đó cũng cần xây dựng các mô hình trình diễn để nông dân có thể tham khảo, học tập và áp dụng cho chính nông hộ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cục Trồng trọt, 2019. Báo cáo tại Hội thảo phát triển cà phê đặc sản Việt Nam tháng 3 năm 2019, ngày 10/3/2019, thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk.
2. Nguyễn Thị Ngọc Hà, Hoàng Hải Long và ctv., 2018. Thực trạng áp dụng cơ giới hóa trong canh tác cà phê, và giống phù hợp cơ giới hóa.
3. Phan Việt Hà, Đinh Thị Nhã Trúc, Hoàng Hải Long và ctv., 2016. Báo cáo kết quả mô hình áp dụng các biện pháp quản lý cây trồng tổng hợp (ICM) cho cây cà phê vối tái canh.