KS. Lê Thị Kim Kiều
Sau đạm và kali lân (P) là nguyên tố thiết yếu không thể thiếu đối với cây trồng. Lân (P) có trong thành phần của protit tạo nên nhân tế bào. Lân (P) rất cần cho sự hình thành, kích thích sự phát triển của rễ, làm cho rễ đâm sâu lan rộng giúp cây ít bị đổ ngã. Hơn nữa, nó cũng kích thích quá trình đẻ nhánh, nảy chồi, thúc đẩy ra hoa đậu quả, tăng tính chống rét, chống hạn, chịu độ chua, chống chịu sâu bệnh hại… Trên thị trường hiện nay có rất nhiều loại phân lân như phân phôtphat nội địa, phân apatit, supe lân, tecmo phôt phat (phân lân nung chảy),… Phân lân (phân chứa P) có hai loại là lân tự nhiên (như Apatit, Phosphorit) và lân chế tạo (như phân Supe lân, phân lân nung chảy, phân monoamon photphat, điamonphotphat, phân lân kết tủa). Dưới đây một số loại phân lân được giới thiệu:
+ Phân phôtphat nội địa là loại bột mịn, có màu nâu thẫm hoặc đôi khi có màu nâu nhạt. Tỷ lệ nguyên chất trong lân thay đổi từ 15 đến 25% P2O5. Phân này có nhiều hợp chất lân ở dạng khó tiêu đối với cây trồng. Phân có tỷ lệ vôi cao nên có khả năng khử chua. Phân này có thể dùng để bón lót, nhưng không nên dùng để bón thúc. Nó ít hút ẩm, ít bị biến chất cho nên có thể cất trữ được lâu.
+ Phân apatit là loại bột mịn, có màu nâu đất hoặc màu xám nâu. Tỷ lệ lân nguyên chất trong phân thay đổi nhiều. Có thể chia phân làm ba loại : loại apatit giàu có trên 38% P2O5, loại apatit trung bình có 17 đến 38% P2O5, loại apatit nghèo có dưới 17% P2O5. Lân trong phân apatit ở dưới dạng khó tiêu, apatit có tỷ lệ vôi cao nên có khả năng khử chua cho đất. Người ta sử dụng phân apatit dùng để bón lót không dùng để bón thúc. Phân apatit ít hút ẩm, ít bị biến chất cho nên có thể cất trữ được lâu.
+ Phân Supe lân là loại bột mịn màu trắng, vàng xám hoặc màu xám thiếc, với thành phần chính là loại muối tan được Ca (H2PO4)2. Có hai loại phân là supe lân đơn và supe lân kép. Supe lân đơn chứa 17 đến 18% P2O5 , 12% S và 22-23%CaO là loại phân chứa nhiều chất mà thành phần chính là photphat canxi (Ca (H2PO4)2 ) và thạch cao ( CaSO4 ), và một ít axit thừa nên có phản ứng chua. Supe lân kép là loại phân mà trong quá trình sản xuất đã loại bớt thạch cao để nâng cao hàm lượng lân. Có hai loại supe lân kép TSP có 46% P2O5 và DSP có 32% P2O5. Phân supe lân dễ hòa tan trong nước, phát huy hiệu quả nhanh, ít bị rửa trôi. Có thể sử dụng supe lân để bón lót hoặc bón thúc. Phân supe lân bón thích hợp trên đất trung tính, đất kiềm. Với loại đất chua nên bón vôi khử chua trước khi bón supe lân. Supe lân ít hút ẩm nhưng trong phân có tính axit nên dễ làm hỏng bì. Trường hợp bảo quản không tốt phân có thể bị nhão và vón thành từng cục.
+ Phân lân kết tủa là loại phân có thành phần chính là dicanxi photphat, có dạng bột trắng, xốp nhẹ trông giống như vôi bột. Trong phân lân kết tủa có tỷ lệ lân nguyên chất cao 38 đến 42% P2O5 và một lượng ít chất canxi, không hòa tan trong nước mà chỉ hòa tan trong xitrat amon. Phân lân kết tủa thường dùng để sản xuất các loại phân phức hoặc dùng để làm thức ăn gia súc. Phân lân kết tủa ít hút ẩm cho nên dễ bảo quản.
+ Phân Tecmô phôtphat (Phân lân nung chảy) là loại phân có dạng bột màu trắng xanh, không mùi vị, không tan trong nước, có tính kiềm nhẹ. Trong phân có tỷ lệ lân là 15 đến 20% P2O5, canxi 28 đến 30%Ca, magiê 15 đến 18%Mg, đôi khi có cả kali. Tecmô phôtphat không tan trong nước, nhưng tan được trong axit yếu, cây sử dụng dễ dàng. Người ta thường sử dụng loại phân này để bón lót hoặc bón thúc đều được. Phân tecmô phôtphat sử dụng có hiệu quả trên các vùng đất cát nghèo dinh dưỡng, đất bạc màu.
+ Phân monoamon photphat (MAP) và phân điamon photphat (DAP)
Phân DAP được sản xuất bằng cách cho phối hợp khí amoniac với axit photphoric tạo thành một hỗn hợp monoamon photphat, diamon photphat và triamon photphat mà diamon photphat là chủ yếu. Hợp chất này dễ hòa tan, cây dễ sử dụng và bền vững hơn triamon photphat (không bị phá vỡ mà mất amon) lại có tỷ lệ amon cao hơn monoamon photphat. Hàm lượng 46-50% P2O5 hòa tan trong amon xitrat 2% và 18 – 20 % N.
Phân MAP có thành phần monoamon phôtphat là chính cũng được sử dụng khá phổ biến. Tỷ lệ N trong phân là 12 – 15% N và 49 – 61% P2O5.
Các loại phân này hòa tan hoàn toàn trong nước, dễ hút ẩm nên thường được sản xuất dưới dạng viên hoặc dùng để sản xuất các loại phân đa nguyên tố. Phân dùng trực tiếp bón lót hoặc bón thúc.
Ưu điểm của DAP và MAP là loại phân giàu chất dinh dưỡng, chứa hàm lượng lân cao nhất trong các loại phân lân và còn chứa đạm nên vận chuyển rẻ tiền hơn.
Lượng đạm so với lân thấp nên thích hợp cho các vùng đất giàu hữu cơ, giàu đạm, chua và thiếu lân. Các vùng đất rừng mới khai phá, các loại đất vùng ven biển mới tiêu thủy để trồng trọt còn giàu hữu cơ và đạm mà lại thiếu lân dùng loại phân này rất hợp.
+ Theo kết quả phân tích trong nhiều năm của Viện khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên. Đất đỏ bazan ở Tây Nguyên có những đặc điểm như sau: độ xốp cao, cấu trúc đất tốt nên dễ dàng thấm nước, kết von ít, nghèo bazơ do bị rửa trôi CaO, MgO, hầu như đất chua hoặc rất chua ( pH < 5 ).Vì vậy, nên sử dụng các loại phân lân trung tính hoặc có tính kiềm. Nếu sử dụng phân lân có tính axit thì nên khử chua trước khi bón phân lân. Khi sử dụng phân lân nên chia ra làm niều đợt bón tốt hơn bón một lần cho cây trồng.