Châu Thị Minh Long, Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây Nguyên
1. Mở đầu
Đắk Lắk là một trong năm tỉnh Tây Nguyên có nhiều dân tộc anh em đang sinh sống. Toàn tỉnh có 46 dân tộc thiểu số bao gồm dân tộc Ê Đê, M’nông, Gia Rai, Tày, Nùng, Thái,…chiếm khoảng 30 % dân số của tỉnh. Các dân tộc Ê Đê, M’nông và Gia Rai là các dân tộc thiểu số tại chỗ của tỉnh chiếm tỷ lệ lần lượt là 49%, 7% và 2,5% dân số các dân tộc trong tỉnh (Ban Dân tộc tỉnh Đắk Lắk, 2014).
Xây dựng nông thôn mới (NTM) là chương trình mục tiêu quốc gia nhằm phát triển toàn diện khu vục nông thôn. Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định nhưng việc xây dựng NTM tại các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số (ĐBDTTS) tại chỗ tỉnh Đắk Lắk hiện vẫn đang còn nhiều vướng mắc. Bài viết này chúng tôi sẽ trình bày một số yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng xã nông thôn mới bền vững ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ tỉnh Đắk Lắk, là kết quả nghiên cứu của đề tài: “Nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng và đề xuất chính sách đặc thù cho việc xây dựng xã nông thôn mới bền vững ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ tỉnh Đắk Lắk”. Địa bàn nghiên cứu bao gồm: xã Ea Wer, huyện Buôn Đôn; xã Ea Trul, huyện Krông Bông; xã Cư Né, huyện Krông Búk; xã Đắk Phơi, huyện Lắk và xã Ea H’leo, huyện Ea H’leo.
2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng NTM ở vùng ĐBDTTS tại chỗ tỉnh Đắk Lắk
Các yếu tố ảnh hưởng đến xây dựng NTM tại các xã vùng ĐBDTTS tại chỗ tỉnh Đắk Lắk được xếp loại theo ý kiến của các bên có liên quan trong các cuộc thảo luận nhóm và hội thảo được trình bày ở bảng 1
2.1. Điều kiện kinh tế
Phát triển nông thôn không thể tách rời với phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập cho người dân. Hiện tại kinh tế của các xã nghiên cứu còn thấp. Thu nhập của người dân chỉ đạt từ 27 – 40% mức bình quân của toàn tỉnh, trừ xã Ea H’leo. Thu nhập của người dân thấp thì việc huy động nguồn vốn là rất khó khăn và có ảnh hưởng đến sản xuất. Kết quả phỏng vấn thực tế cho thấy có khoảng 80% số hộ phải vay mượn kể cả phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt hằng ngày từ bà con, hàng xóm và các đại lý nông sản tại địa phương với lãi suất cao hơn gấp hai lần. Một số hộ do không có vốn đầu tư mua phân bón nên năng suất cây trồng thấp. Điều này dẫn đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp thấp, lại rơi vào vòng lẩn quẩn thiếu vốn, nợ nần và nghèo đói.
2.2. Điều kiện tự nhiên và hạ tầng cơ sở
Điều kiện tự nhiên tại các xã nghiên cứu được xác định là yếu tố bất lợi cho công tác xây dựng NTM. Nguyên nhân là do hầu hết các xã vùng ĐBDTTS tại chỗ là các xã vùng sâu, vùng xa, cách trung tâm huyện và trung tâm văn hóa của Tỉnh nên ảnh hưởng đến việc giao lưu, trao đổi hàng hóa của người dân cũng như việc trao đổi thông tin, tiếp cận thị trường. Hạ tầng cơ sở bao gồm giao thông, thủy lợi, điện, trường học, cơ sở vật chất văn hóa, chợ và nhà ở dân cư tại các xã vùng ĐBDTTS tại chỗ được xem là các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến việc hoàn thành tiêu chí xây dựng NTM. Hệ thống giao thông tại các xã vùng ĐBDTTS tại chỗ còn yếu và chưa đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu của Bộ tiêu chí quốc gia về NTM. Các công trình thủy lợi tại các xã vùng ĐBDTTS tại chỗ chưa đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của người dân. Vào mùa khô, nhiều khu vực vẫn chưa chủ động được nước tưới, một số nơi còn xảy ra hạn hán gây mất mùa.
2.3. Nhận thức người dân
Nhận thức của người dân có vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng NTM. Một khi người dân đã nhận thức đúng đắn về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM là sự nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm và quyền lợi thiết thực của mỗi người dân nông thôn thì chính họ sẽ hăng hái tham gia xây dựng và phát triển nông thôn ngày càng văn minh, sạch đẹp; tăng gia sản xuất nâng cao thu nhập; tự nguyện đóng góp vào công cuộc xây dựng chung của toàn xã hội. Ngược lại, nếu người dân nhận thức chưa đầy đủ thì sẽ rất khó huy động nội lực của cộng đồng cũng như các hoạt động khác trong xây dựng NTM.
2.4. Sự tham gia của người dân
Sự tham gia trong các hoạt động trong phát triển nông thôn của người dân được thể hiện ở: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân đóng góp, dân quản lý và dân hưởng lợi. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Đảng ta là “lấy dân làm gốc”. Từ đó, người dân sẽ: là chủ thể xây dựng NTM; tham gia ban chỉ đạo xây dựng NTM cấp thôn; tham gia các hoạt động tuyên truyền; đóng góp cho các hoạt động xây dựng NTM; tham gia giám sát thực hiện các hạng mục công trình; xây dựng hệ thống chính trị – xã hội vững mạnh, bảo đảm an ninh trật tự xã hội ở cơ sở.
Hơn ai hết, chính những người dân nông thôn sẽ hiểu rõ tiềm năng, nhu cầu và lợi ích của chính cộng đồng mình. Vì vậy, phát huy sự tham gia của người dân chính là góp phần tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần xây dựng thành công NTM.
2.5. Văn hóa, tôn giáo và vai trò của những người có uy tín trong cộng đồng
Tại các buôn ĐBDTTS tại chỗ tỉnh Đắk Lắk, những người có uy tín trong cộng đồng có vai trò rất quan trọng và có có ảnh hưởng lớn đối với niềm tin của người dân. Vì vậy, trong công tác tuyên truyền cần chú trọng đến vai trò của họ. Chế độ mẫu hệ là nét đặc trưng của người ĐBDTTS tại chỗ Tây Nguyên. Trong hầu hết các gia đình người ĐBDTTS tại chỗ, người phụ nữ có vai trò quan trọng trong việc ra quyết định. Vì vậy, việc tuyên truyền thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước có thể được bắt đầu từ sự vận động những người phụ nữ trong từng gia đình.
2.6. Vai trò của chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị-xã hội
Các cơ quan chính quyền địa phương có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ phát triển nông thôn. Các tổ chức xã hội như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh,… có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn xây dựng thiết chế quản lý cộng đồng. Chính quyền địa phương hiệu quả có vai trò rất quan trọng trong việc huy động nguồn lực cũng như khả năng quản lý cơ sở, cách tiếp cận nông dân, tuyên truyền, vận động, tổ chức và hành động để đạt được các chỉ tiêu, mục tiêu đề ra trong xây dựng NMT.
2.7. Ảnh hưởng của các chương trình, dự án đến xây dựng NTM ở vùng ĐBDTTS tại chỗ tỉnh Đắk Lắk
Các chương trình, dự án trên địa bàn sẽ góp phần phát triển KT – XH và tạo điều kiện cho cán bộ và người dân địa phương năng động, có cơ hội học tập nâng cao trình độ sản xuất và kinh nghiệm quản lý.
Với sự hỗ trợ của Đảng và Nhà nước, các chính sách xóa đói giảm nghèo, nước sạch vệ sinh môi trường, hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nhà ở, chính sách giao đất giao rừng, chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, chính sách khuyến nông đã góp phần phát triển kinh tế xã hội của các xã vùng ĐBDTTS tại chỗ tỉnh Đắk Lắk, góp phần thay đổi đáng kể bộ mặt nông thôn, đồng thời hỗ trợ tích cực các địa phương trong công cuộc xây dựng NTM.
2.8. Vai trò của khoa học kỹ thuật
Khoa học kỹ thuật bao gồm giống mới, kỹ thuật sản xuất mới,.. có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, tăng thu nhập trên đơn vị diện tích.
Hiện nay, việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất của người dân các xã vùng ĐBDTTS tại chỗ còn hạn chế. Vì vậy, họ thường có thu nhập thấp và tỷ lệ hộ nghèo cao, ảnh hưởng đến việc hoàn thành một số tiêu chí trong xây dựng NTM, đồng thời cũng ảnh hưởng đến khả năng đóng góp của cộng đồng trong xây dựng NTM. Với truyền thống canh tác thô sơ, chủ yếu là tự cung tự cấp trong hộ gia đình từ ngàn xưa nên việc chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất cho người ĐBDTTS tại chỗ cần phải có sự kiên trì và những giải pháp cụ thể dựa vào những đặc điểm về phong tục tập quán của người dân địa phương, có thể kết hợp với việc đưa các cán bộ là người ĐBDTTS hoặc là người biết tiếng địa phương để tập huấn, hướng dẫn người dân sản xuất nhằm giúp cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp ngày càng tốt hơn.
Chính vì vậy, cần phải chú trọng đầu tư nghiên cứu và chuyển giao KHKT phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của địa phương nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, tăng thu nhập cho người dân, giúp người dân xóa đói, giảm nghèo và vươn lên làm giàu.
2.9. Lao động, việc làm ở nông thôn
Trong quá trình xây dựng NTM, một vấn đề quan trọng là giải quyết việc làm ở nông thôn. Cần có sự mở mang các loại hình dịch vụ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở ngay trong cộng đồng để thu hút nguồn lao động tại chỗ, “ly nông bất ly hương”. Điều này đòi hỏi lực lượng lao động trẻ nông thôn phải được đào tạo, nâng cao tay nghề.
Kết quả điều tra tại các xã nghiên cứu năm 2014 cho thấy nguồn lao động tại chỗ của các địa phương rất dồi dào, chiếm trên 50% dân số (trừ xã Ea H’leo, chiếm 48,5%). Phần lớn lao động trong các lĩnh vực sản xuất nông lâm nghiệp (80,7 – 94,4%) một lĩnh vực thường cho thu nhập thấp. Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn cũng đã được triển khai ở các xã nghiên cứu. Tuy nhiên, kết quả phỏng vấn 150 cán bộ và người dân tại 5 xã này về hiệu quả của các chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn cho thấy chỉ có khoảng 1/3 số người được hỏi trả lời là có hiệu quả và rất có hiệu quả. Số còn lại cho rằng chương trình này không hiệu quả
Tóm lại, các yếu tố chính ảnh hưởng đến xây dựng NTM tại các xã vùng ĐBDTTS tại chỗ tỉnh Đắk Lắk bao gồm: kinh tế người dân; điều kiện tự nhiên và hạ tầng cơ sở; nhận thức của người dân; các chương trình, dự án trên địa bàn; vai trò của chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị- xã hội; sự huy động nội lực của cộng đồng; văn hóa, tôn giáo và vai trò của những người có uy tín trong cộng đồng; việc áp dụng tiến bộ KHKT và vấn đề giải quyết việc làm ở nông thôn. Vì vậy, để xây dựng NTM bền vững tại các địa phương này cần thiết phải dựa trên cơ sở các yếu tố ảnh hưởng nói trên.