Giải pháp kỹ thuật nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị một số cây trồng chính vùng Tây Nguyên giai đoạn 2018 – 2020

TS. Phan Việt Hà

1.Đặt vấn đề

     Tây Nguyên là một trong những vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn nhất nước do điều kiện đất đai, khí hậu phù hợp. Các cây trồng có giá trị kinh tế cao, chủ lực của vùng là: cà phê, hồ tiêu, điều….; các loại cây ăn quả như cây bơ, cây sầu riêng ..vv. Đây là những cây trồng thế mạnh ở vùng Tây Nguyên đóng góp phần lớn trong việc tạo ra nông sản có giá trị cao và đem lại kim ngạch xuất khẩu đáng kể cho Việt Nam. Các loại cây trồng này đã hình thành nên các vùng chuyên canh và có tác động lớn đến kinh tế, xã hội trong vùng.

     Theo số liệu thống kê, tính đến hết năm 2017, diện tích cà phê của Việt Nam là khoảng 645 ngàn ha, xuất khẩu gần 1,8 triệu tấn cà phê, đạt 3,4 tỷ USD. Cà phê mang đến việc làm cho khoảng 600.000 nông dân trồng cà phê và hàng chục nghìn lao động trong các ngành phụ trợ, dịch vụ cho chuỗi phát triển cà phê. Cây cà phê trở thành một ngành hàng quan trọng trong nông nghiệp, đóng góp vào bức tranh tăng trưởng của kinh tế. Đối với cây hồ tiêu, hiện nay diện tích canh tác khoảng 152 ngàn ha, tăng gấp 3 lần so với quy hoạch. Sản lượng hạt tiêu tăng quá nhanh, vượt quá nhu cầu đã ảnh hưởng lớn đến giá cả. Ngoài ra, trong vài năm trở lại đây, các loại cây ăn trái có giá trị như bơ và sầu riêng cũng được phát triển rộng rãi ở quy mô hàng hóa. Ước tính các tỉnh Đăk Lăk, Lâm Đồng, Đăk Nông, Gia Lai đã phát triển cây ăn trái dưới hình thức trồng xen với quy mô mỗi tỉnh 15-20 ngàn ha và cho thu nhập khá cao (Cục Trồng trọt, Trung tâm Tin học và Thống kê – Bộ NN và PTNT, Sở NN và PTNT các tỉnh Tây Nguyên 2017).

     Tuy nhiên, trong năm 2018, sản xuất nông nghiệp nói chung và các loại cây có giá trị cao đặc thù ở Tây Nguyên phải đối diện nhiều vấn đề như giá cả bấp bênh, giá nhân công và vật tư đầu vào tăng, đặc biệt là ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, hiện tượng thời tiết cực đoan… vv. Cụ thể như sau:

     – Trong năm 2018, mưa nhiều và kéo dài liên tục trong mùa mưa đã ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển cây trồng và gây rụng trái; ảnh hưởng các kỹ thuật canh tác; và làm phát sinh mạnh các loại sâu bệnh hại.

     – Giá các loại nông sản chính như cà phê, hồ tiêu, bơ giảm thấp, trong khi giá cây sầu riêng tăng cao dẫn đến việc giảm đầu tư cho sản xuất các loại có giá thấp và việc phát triển đột biến về diện tích cây sầu riêng.

     – Tình hình sâu bệnh hại xu hướng phát triển, đặc biệt là dịch bọ xít muỗi, nấm bệnh gây nứt thân, thối rễ phát triển.

     – Xu hướng trồng xen được nông dân áp dụng rộng rãi đặc biệt là trồng xen cây sầu riêng trong các vườn cà phê.

     Để đối phó với những yếu tố bất lợi, duy trì sự phát triển  nông nghiệp bền vững ở vùng Tây Nguyên; góp phần tái cơ cấu ngành nông nghiệp cũng và xây dựng nông thôn mới, trong sản xuất phải áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, nâng cao giá trị giá tăng trong phân khúc sản xuất trong chuỗi giá trị ngành hàng.

2.Các giải pháp kỹ thuật nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị một số cây trồng chính vùng Tây Nguyên

2.1. Giải pháp giống cây trồng

     Sử dụng các giống đã được công nhận bởi Bộ Nông nghiệp và PTNT và Sở NN và PTNT các tỉnh. Cần theo dõi chặt chẽ tình hình sinh trưởng phát triển và sâu bệnh hại của các giống trong điều kiện thời tiết cực đoan để có những đánh giá đầy đủ và khuyến cáo giống phù hợp vào sản xuất trong tình hình mới. Đặc biệt, nên sử dụng các giống đáp ứng được với nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng hiện nay, chú ý vấn đề chất lượng và thị hiếu. Cụ thể:

+ Giống cà phê

Đối với cà phê vối, tiếp tục sử dụng các giống mới, có năng suất, chất lượng tốt, chống chịu bệnh gỉ sắt để trồng mới hoặc tái canh. Cây giống cà phê được sử dụng gồm cây giống thực sinh – giống TRS1, cây ghép – các giống TR4, TR5, TR6, TR9, TR11…., cây giống cà phê nuôi cấy mô – các giống TR4, TR9… phục vụ cho tái canh cà phê. Ngoài ra, sử dụng bộ giống cà phê chín muộn có năng suất cao TR14, TR15 ( 4- 6 tấn nhân/ha), chất lượng tốt cho những vùng có nguy cơ thiếu hụt nguồn nước và góp  phần chuyển dịch mùa vụ thu hoạch cà phê sang đầu mùa khô để thuận lợi cho phơi sấy, chế biến và phân bổ lại lực lượng lao động thời vụ tham gia chuỗi sản xuất cà phê. Ngoài ra, giống cà phê vối lai đa dòng có khả năng thích nghi cao do nguồn gen phong phú và những con lai tốt nhất cũng có thể đạt từ 90-95% năng suất của các dòng vô tính chọn lọc, chất lượng hạt cà phê nhân cũng được cải thiện.

Đối với cây cà phê chè, sử dụng giống cà phê chè THA1 có khả năng thích ứng rộng, cho năng suất cao (3 – 3,5 tấn nhân/ha), chất lượng cà phê tách tốt thay thế dần giống cà phê Catimor đang sản xuất đại trà hiện nay ở các vùng sinh thái Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. Hiện nay giống Catimor trong sản xuất cho thấy có nhiều hạn chế do chất lượng không cao, nhiễm bệnh gỉ sắt nặng ở các vùng canh tác và cần được thay thế.

Bảng 1. Năng suất và đặc tính của một số giống cà phê vối đã được công nhận

Ký hiệu giống

Năm công nhận giống mới/SXT

Năng suất trung bình (tấn nhân/ ha)

Khối lượng 100 nhân (g)

Tỷ lệ hạt trên sàng 16

(%)

Mức kháng bệnh gỉ sắt

TR4

2006

7,30

17,2

73,5

Rất cao

TR6

2006

4,74

17,5

78,3

Rất cao

TR9

2011

5,50

24,1

98,0

Rất cao

TR11

2011

4,50

18,5

77,2

Rất cao

TR12

2011

4,30

25,1

98,8

Rất cao

TR13

2011

4,50

19,2

91,0

Rất cao

TR14

2016

4,84

19,1

94,0

Cao

TR15

2016

4,10

22,9

97,0

Cao

TRS1

2015

4,31

19,1

85,3

Cao

Nguồn: Đinh Thị Tiếu Oanh, 2018

+ Giống Hồ tiêu

     Sử dụng giống Vĩnh Linh, đã được Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên đánh giá, khuyến cáo vào sản xuất và đề nghị công nhận giống quốc gia. Đây là giống có đặc điểm nổi trội chính:

     – Giống Vĩnh Linh có khả năng sinh trưởng tốt hơn so với giống Lộc Ninh. Các chỉ tiêu về đường kính tán, chiều dài cành cấp 1, số cành cấp 2/cành cấp 1, số đốt trên cành cấp 1 đều vượt trội so với giống Lộc Ninh.

     – Năng suất: năng suất trung bình từ 2,9 tấn khô/ha khi trồng tại Đông Nam Bộ, và khoảng 5,4 tấn khô/ha trong điều kiện Tây nguyên.

     – Chất lượng dinh dưỡng và xuất khẩu: giống Vĩnh Linh đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về xuất khẩu theo tiêu chuẩn xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó, dung trọng đạt 569,99 g/lít, hàm lượng oleoresin đạt 16,76%, eter không bay hơi 9,48%, dầu thiết yếu 2,10% và hàm lượng piperine là 4,51%.

     Trong trường hợp ở các vùng có điều kiện bất lợi, dễ phát triển sâu bệnh hại có thể sử dụng các giống sinh trưởng khỏe, khả năng chống chịu sâu bệnh hại tốt như tiêu trâu để trồng.

Bảng 2: Năng suất của các giống hồ tiêu tại Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Quảng Trị

Giống

Năng suất khô (kg/ha)

Đông Nam Bộ

Tây Nguyên

Quảng Trị

Vĩnh Linh

3.000 – 4.500

4.500 – 5.500

2.400 – 2.800

Ấn Độ

3.000 – 4.000

3.500 – 4.500

2.200 – 2.500

Lộc Ninh

3.000 – 3.500

4.000 – 4.500

1.800 – 2.200

Tiêu Trâu

2.000 – 3.500

3.000 – 4.000

1.500 – 2.000

Nguồn: Đỗ Trung Bình, 2012

+ Giống bơ

     Lưu ý tính phù hợp cho từng vùng sinh thái. Giống bơ Hass phù hợp với các vùng có khí hậu lạnh hơn so với giống bơ Booth. Khi trồng các loại cây ăn quả, cần bố trí cơ cấu giống rải vụ để đảm bảo kéo dài thời gian cung cấp sản phẩm ra thị trường.

     Trong thời gian qua, bơ Booth 7 cho thấy vài nhược điểm khi phát triển rộng như: khả năng ra hoa đậu quả không đồng đều ở các vùng sinh thái khác nhau, dễ bị sâu bệnh hại tấn công, đặc biệt là bệnh do nấm Phytophthora gây xì mủ thân, bọ xít muỗi chích quả, vv. Vì vậy, đối với giống bơ Booth 7, chỉ phát triển ở những vùng có điều kiện tự nhiên thực sự thích hợp cho ra hoa đậu quả, chưa có dịch sâu bệnh hại, đặc biệt là bọ xít muỗi. Có thể xem xét phát triển các giống khác có giá trị cao hiện nay như 034, TA1, Reed, TA40 là những giống có khả năng ra hoa đậu quả tốt, thích nghi rộng ít bị gây hại bởi dịch bọ xít muỗi hiện nay.

+ Giống sầu riêng

     Hiện nay, sầu riêng là cây trồng phát triển mạnh và mang lại thu nhập cao cho người sản xuất vùng Tây Nguyên. Trong thời gian qua, sản xuất sầu riêng có một vài vấn đề liên quan đến chất lượng quả, tiêu chuẩn quả xuất khẩu, sâu bệnh hại, đặc biệt là bệnh do nấm Phytophthora tấn công khi câu sầu riêng bị suy yếu do khai thác quá mức về năng suất.

     Về giống, đối với vùng Tây Nguyên, nên trồng giống sầu riêng Dona (Monthong). Đây là giống sinh trưởng tốt phù hợp với điều kiện tự nhiên của Tây Nguyên, sản phẩm có chất lượng tốt, năng suất có thể đạt 200-300 kg/cây, có thể bảo quản lâu hơn các giống khác, phù hợp với tiêu chí xuất khẩu. Giống Monthong trồng ở Tây Nguyên hiện chiếm trên 97% diện tích sầu riêng. Các giống Ri6, Chín hóa chỉ nên trồng với tỷ lệ thấp hơn, mang ý nghĩa rải vụ và phục vụ nội tiêu. Đây là những giống chín sớm ở Tây Nguyên, tuy nhiên để lâu sẽ bị ảnh hưởng đến chất lượng.

     Về tiêu chuẩn cây giống, cần cử dụng các giống có chất lượng đảm bảo từ các đơn vị sản xuất cây giống được các cấp có thẩm quyền công nhận và có công nghệ sản xuất cây giống tiên tiến.

2.2. Giải pháp canh tác tổng hợp

     Canh tác tổng hợp là những thực hành nông nghiệp tốt được áp dụng đồng bộ cho vườn cây nhằm tạo ra các quan hệ tương hỗ để vườn cây phát triển bền vững nhất cho tất cả các mặt kinh tế, xã hội, môi trường. Để đối phó với các thách thức về giá cả nông sản bấp bênh, tình hình thời tiết cực đoan thì canh tác tổng hợp là là giải pháp hữu hiệu. Các nghiên cứu của Viện Khoa học kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên chia các biện pháp canh tác tổng hợp ra làm 04 hợp phần: quản lý dinh dưỡng, quản lý tưới nước, quản lý sâu bệnh hại và quản lý tổng thể vườn cây. Đối với cây cà phê, áp dụng quy trình quản lý cây trồng tổng hợp có thể tiết kiệm chi phí sản xuất (khoảng 16 %), nâng cao hiệu quả kinh tế (15 – 16 %).

Bảng 3: Chất lượng cà phê nhân sống mô hình áp dụng quy trình quản lý cây trồng tổng hợp áp dụng cho cây cà phê

Công thức

Tỷ lệ tươi/

nhân

TL 100 nhân (g)

Tỷ lệ hạt trên sàng 16 (%)

Trước TN

4,74

16,85

83,4

Sau TN-ICM

4,76

16,90

84,1

Sau TN-ĐC

4,78

16,82

83,5

Nguồn: Lê Ngọc Báu, Phan Việt Hà, 2015, Nghiên cứu hoàn thiện quy trình quản lý cây trồng tổng hợp áp dụng cho cây cà phê, Báo cáo tổng kết.

+ Quản lý dinh dưỡng tổng hợp

     Đối với cà phê, bón phân dựa vào độ phì đất (từ kết quả phân tích đất) và năng suất cà phê dự kiến đạt được là giải pháp kỹ thuật mang lại hiệu quả kinh tế cao đang được nhiều đơn vị, nông dân trồng cà phê áp dụng theo khuyến cáo của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên. Việc áp dụng giải pháp kỹ thuật này giúp tiết kiệm chi phí phân bón từ 5 – 30 %, hiệu quả kinh tế tăng 5 – 10 %. Những nơi không thể tiếp cận được với dịch vụ trên cần bón đúng khuyến cáo trong quy trình kỹ thuật và phải tuân thủ quy tắc 4 đúng. Trong điều kiện mưa nhiều và liên tục kéo dài, cần chia các lần bón phân ra thành nhiều lần nhỏ, không bón phân trước những đợt có bão hay áp thấp nhiệt đới. Sau các đợt mưa nhiều, nên sử dụng các loại phân bón lá chuyên dụng để phun cho vườn cây. Đối với các vườn cà phê tập trung và có khả năng đầu tư, nên sử dụng công nghệ tưới nước tiết kiệm và bón phân qua nước. Đây là công nghệ có thể giúp tiết kiệm đến 50% lượng phân bón trên đơn vị sản phẩm.

     Đối với hồ tiêu, cần duy trì kỹ thuật bón phân hữu cơ hàng năm (10-15 tấn/ha/năm), phun phân bón lá chuyên dùng 2 – 3 lần/năm, bón phân hóa học cân đối và hợp lý. Nên bón phân khoáng cho cây hồ tiêu theo độ phì đất và nhu cầu dinh dưỡng của cây hồ tiêu. Ngoài ra, có thể sử dụng các hệ thống tưới tiết kiệm kết hợp bón phân qua hệ thống tưới. Đây là một biện pháp hiệu quả trong việc kiểm soát lượng nước tưới cũng như bón phân cho hồ tiêu. Bón phân qua hệ thống tưới giúp cây sinh trưởng tốt, có sức đề kháng với dịch hại nhưng lại giảm được lượng phân bón lên đến 50 %; góp phân nâng cao hiệu quả sản xuất cũng như hạn chế nguy cơ ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, áp dụng kỹ thuật tưới tiết kiệm có thể kết hợp sử dụng các chế phẩm bảo vệ thực vật trong việc kiểm soát các loại sâu bệnh hại hồ tiêu phát sinh từ đất như nấm, tuyến trùng….

     Đối với các cây ăn quả như sầu riêng, bơ thì ngoài việc áp dụng đúng các khuyến cáo trong quy trình bón phân, cần chú ý việc tăng cường sử dụng phân hữu cơ, đặc biệt là hữu cơ khoáng để cải tạo đất và cung cấp dinh dưỡng cho cây. Đối với phân Kali thì nên sử dụng phân Kali Sulphate để tăng chất lượng của sản phẩm quả.

+ Quản lý tưới nước tổng hợp

     Theo các dự báo thời tiết cho những năm tiếp theo các các cơ quan chuyên môn thì tình trạng hạn hán gay gắt diễn ra trong mùa khô sẽ giảm bớt với tác động của hiện tượng thời tiết ENSO pha lạnh (La Nina). Tuy nhiên, cần chủ động có những biện pháp tưới tiên tiến và tiết kiệm để tiết kiệm tài nguyên và nâng cao hiệu quả tưới. Vì vậy, vẫn nên áp dụng công nghệ tưới nước tiết kiệm, tích hợp công nghệ bón phân qua hệ thống tưới nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất (tiết kiệm từ 20 – 30 % lượng nước). Đối với cà phê có thể sử dụng kỹ thuật tưới nước nhỏ giọt trong khi cây hồ tiêu và câu ăn trái có thể sử dụng hệ thống phun mưa cục bộ. Việc sử dụng các hệ thống tưới cục bộ cũng có tác dụng làm giảm ảnh hưởng của tưới nước cho các vườn trồng xen khi thời điểm phân hóa mầm hóa và tưới bùng hoa của các cây trồng là khác nhau.

+ Quản lý dịch hại tổng hợp

     Với việc áp dụng các kỹ thuật canh tác tổng hợp hiện nay trong sản xuất thì vấn đề sâu bệnh hại ngày càng được đẩy lùi. Ở nhiều vùng, việc sử dụng thuốc hóa học trong phòng trừ sâu bệnh hại đã được hạn chế tối đa. Tuy nhiên, theo điều tra của Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên thì các vấn đề sau vẫn cần được quan tâm và chấn chỉnh: người dân chưa có khái niệm về ngưỡng gây hại nên phun thuốc ngay sau khi thấy sâu bệnh xuất hiện; còn phun thuốc đại trà và chưa đúng cách; chưa áp dụng triệt để và đồng bộ các biện pháp tổng hợp khác trong canh tác. Vì vậy, cần phải phổ biến các kỹ thuật quản lý dịch hại tổng hợp để người sản xuất có thể có những tác động hợp lý vào hệ thống sâu bệnh hại – cây trồng nhằm hạn chế tối đa việc sử dụng hóa chất, tăng tính bền vững của hệ thống.

     Các hoạt động quản lý cây trồng nên chú ý đến việc sử dụng giống kháng sâu bệnh, dinh dưỡng đất, chất hữu cơ, làm cỏ, che bóng và chế độ tỉa cành thích hợp.  Những hoạt động quản lý khác như những biện pháp vệ sinh cây trồng để loại bỏ những cây hoặc cành bệnh và dọn sạch quả rơi rụng nếu sâu đục quả cũng được phải quan tâm để duy trì sức khỏe cây trồng.

     Thuốc trừ sâu bệnh nên được sử dụng khi cần thiết cho cà phê và được sử dụng hợp lý. Vì thế sử dụng hoá chất thích hợp theo nguyên tắc 4 đúng cần phải được ưu tiên. Ngoài việc phát triển rất nhiều các thuốc trừ sâu bệnh có nguồn gốc sinh học thì việc áp dụng và đưa các chế phẩm vi sinh vật đối kháng ra sản xuất cũng đang được thực hiện rất mạnh. Với việc phân lập các dòng nấm đối kháng chủng Trichoderma spp., Pseudomonas spp., …vv, các chế phẩm sinh học ngày càng đa dạng, có tác dụng rộng và được xem như là lựa chọn trong sản xuất cà phê bền vững theo hướng IPM.

     –  Đối với cây hồ tiêu, cây bơ và sầu riêng thì nên áp dụng các biện pháp chính như: vun gốc cây vào đầu mùa mưa, trồng cây lạc dại (Arachis pintoi) để che phủ đất, đào mương thoát nước đối với những vùng thoát nước kém hay mưa nhiều. Thường xuyên theo dõi phát hiện các loại sâu bệnh hại trên vườn để phòng trừ, không để dịch hại phát triển lây lan. Hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc hóa học trong phòng trị bệnh để tránh tồn dư hóa chất BVTV trong sản phẩm.

+ Trồng xen

     Một trong những xu thế hiện nay trong phát triển nông nghiệp ở Tây Nguyên đối với những cây trồng chính là việc trồng xen cây cây có giá trị cao trong vườn cà phê. Đây là một biện pháp, ngoài việc làm gia tăng thu nhập ổn định trên một đơn vị diện tích, còn là điều kiện để gia tăng chất lượng hạt cà phê so với các mô hình trồng thuần. Mặt khác khi trồng xen sẽ góp phần hạn chế lây lan các loại dịch hại trên cây ăn quả như nấm Phytopthora…

Hiện Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên đã hoàn thiện quy trình trồng xen tạm thời trình các cấp có thẩm quyền để khuyến cáo vào sản xuất. Nghiên cứu khuyến cáo các khoảng cách cây trồng xen trên vườn cà phê cho từng loại hình trồng xen như sau: Sầu riêng trồng xen khoảng cách 12 x 12 m và 12 x 15 m; hồ tiêu trồng xen với khoảng cách 3 x 6 m, 6 x 6 m và 3 x 9 m; bơ trồng xen với khoảng cách 12 x 12m và 12 x 15m, để đảm bảo duy trì năng suất cà phê trên 3 tấn nhân/ha và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn đáng kể so với trồng thuần (tăng so với trồng thuần 39,58 – 120,45%).

Bảng 4. Hiệu quả kinh tế các loại mô hình trồng xen trong vườn cà phê (triệu đồng/ha)

Loại hình trồng xen

Khoảng

cách trồng xen

Năng suất

Tổng chi

Tổng thu

Lợi nhuận

Lợi nhuận so với cà phê thuần (%)

CF
(tấn nhân/ha)

TX (kg/cây)

CP trồng thuần

 

3,9

 

86,30

144,70

58,30

 

CP+Sầu riêng

6 x 6

2,9

40,2

114,40

333,52

219,12

   275,85

9 x 9

3,1

86,2

126,56

361,23

233,03

   299,71

9 x 12

3,4

77,9

111,58

310,83

199,24

   241,75

12 x 12

3,5

59,6

121,01

235,78

114,77

     96,85

12 x 15

3,2

95,8

129,42

231,97

102,54

     75,89

CP+Tiêu

3 x 3

3,2

2,1

144,92

306,82

161,90

   177,70

3 x 6

3,1

2,7

119,80

248,32

128,52

   120,45

6 x 6

3,3

3,3

141,42

258,16

116,75

   100,25

6 x 9

3,6

3,6

122,48

229,31

106,83

     83,23

CP+Bơ

6 x 6

3,0

41,3

104,32

222,25

117,93

   102,28

9 x 12

3,3

31,6

126,30

222,60

96,30

     65,19

12 x 12

3,1

42,8

97,52

204,35

106,83

     83,24

12 x 15

3,3

44,3

110,24

191,62

81,38

     39,58

CP+Điều

6 x 6

2,1

10,5

83,68

120,70

63,50

-36,50

12 x 12

2,8

21,3

97,70

156,88

101,51

1,51

15 x 15

3,2

34,3

96,09

175,33

135,92

35,92

 

     – Trồng xen hồ tiêu trong các vườn cà phê cũng góp phần tăng hiệu quả sản xuất đồng thời hạn chế các loại dịch hại tấn công trên hồ tiêu so với trồng thuần.

3.Kết luận và đề nghị

    – Thời tiết bất thường, mưa nhiều và liên tục kéo dài, giá cả nông sản giảm là những thách thức cho việc phát triển của nông nghiệp vùng Tây Nguyên hiện nay.

    – Bên cạnh đó, việc phát triển các loại cây trồng không theo định hướng quy hoạch, phát triển ồ ạt không theo định hướng thị trường, việc áp dụng thiếu đồng bộ các khâu kỹ thuật trong sản xuất đã làm giảm năng suất chất lượng nông sản, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển bền vững.

     – Cần áp dụng đồng bộ các khâu kỹ thuật từ giống, canh tác, bảo vệ thực vật, chú trọng việc xác định thị trường đầu ra để ứng phó với các khó khăn hiện nay và phát triển bền vững.