Điều tra bệnh hại cây cà phê và biện pháp quản lý tại tỉnh Đắk Nông

 Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Xuân Hòa
Bộ môn Bảo vệ thực vật

1. GIỚI THIỆU

Hiện nay tỉnh Đắk Nông có khoảng 120.000 ha cà phê với sản lượng gần 240.000 tấn. Trong đó có khoảng 85% diện tích thuộc các hộ tư nhân với diện tích bình quân mỗi hộ khoảng 0,8 ha(Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đắk Nông, năm 2015). Cà phê được xác định là loại cây trồng chủ lực của tỉnh, mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần quan trọng vào giá trị xuất khẩu nông sản của cả nước. Tuy nhiên hiện nay do sự biến đổi khí hậu và sự phát triển của sâu bệnh hại làm năng suất giảm sút ảnh hưởng đến thu nhập của người dân trồng cà phê.

Canh tác cây cà phê đang gặp nhiều khó khăn do vấn đề bệnh hại, đặc biệt là vần đề tái canh cây cà phê do những diện tích cà phê già cỗi không mang lại hiệu quả kinh tế cần phải trồng thay thế và chuyển đổi. Thực hiện giám sát và quản lý bệnh hại cây cà phê là cần thiết giúp phòng trừ bệnh hại trên cây cà phê một cách có hiệu quả và góp phần canh tác cà phê bền vững.

2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

2.1. Nội dung thực hiện

Điều tra tình hình bệnh hại và các biện pháp quản lý bệnh hại trên cây cà phê tại một sốvùng trọng điểm của tỉnh Đắk Nông.

2.2. Phương pháp thực hiện

*Địa điểm thực hiện

Các huyện và thị xã thuộc vùng trọng điểm trồng cà phê của tỉnh Đắk Nông: huyện Đắk Mil, huyệnĐắk Song,huyệnĐắk R’lấp và thị xã Gia Nghĩa. 

*Thời gian thực hiện

Thu thập số liệu thứ cấp vào tháng 10 năm 2016.

 Đánh giá tình hình bệnh hại cà phê và biện pháp quản lý bệnh hại cà phêcủa các nông hộ tại các địađiểm trên các tháng 10 – 11 năm 2016.

                        * Phương pháp thực hiện

+ Lập bộ phiếu điều tra về quản lý bệnh hại cây cà phê bao gồm:tình hình bệnh hại trên vườn cà phê của nông hộ (các loại bệnh hại, tỷ lệ và mức độ hại của bệnh); tình hình quản lý bệnh hại của nông hộ…

                        +Thu thập số liệu sơ cấp: điều tra, phỏng vấn các nông hộ sản xuất cà phê theo phiếu điều tra kết hợp điều tra đánh giá vườn cà phê. Áp dụng phương pháp  đánh giá có sự tham gia (PRA – Participatory Rapid Appraisal).

– Số mẫu điều tra, khảo sát: Chọn cố định5 nông hộ sản xuất cà phê/xã/đợt tại 11 xã thuộc 4 vùng sản xuất tập trung (để điều tra và đánh giá tình hình quản lý bệnh hại trên cây cà phê (4 đợt khảo sát x 11 xã x 5 nông hộ/xã/đợt = 220 mẫu). 

                        -Tiến hành điều tra đánh giá tình hình bệnh hại và các biện pháp quản lý bệnh trên các vườn cà phê của nông hộ thuộc vùng dự án, từ đó đánh giá hiệu quả của quản lý bệnh hại và đề xuất biện pháp quản lý thích hợp: Trên mỗi vườn, điều tra thành phần bệnh hại, Tỷ lệ và mức độ hại của các loại bệnh hại chính trên vườn cà phê (lấy mẫu phân tích xác định nguyên nhân nếu cần thiết). Sử dụng Quy chuẩn kỹ thuật Quốc giavề phương pháp điều tra phát hiện dịch hại cây trồng (QCVN 01-38: 2010/BNNPTNT) để điều tra, đánh giá và phân cấp bệnh hại.

3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Tình hình bệnh hại trên cà phê và biện pháp quản lý

3.1.1. Tình hình bệnh hại cà phê

Tại thời điểm điều tra, các loại bệnh được khảo sát bao gồm: bệnh vàng lá thối rễ, bệnh gỷ sắt, bệnh khô cành khô quả, bệnh nấm hồng, bệnh đốm mắt, bệnh lở cổ rễ, bệnh thối nứt thân…

Bảng 1. Tổng hợp các loại bệnh hại cà phê tại các hộ điều tra

Loại bệnh

Tỷ lệ vườn bị bệnh (%)

Tỷ lệ cây bị bệnh (%)

Mức độ hại (%)

Mức độ quan trọng

Không bệnh

Nhẹ

Trung bình

Nặng

Rất nặng

Bệnh vàng lá, thối rễ

61,8

12,2

38,2

52,7

6,4

2,7

0,0

2

Bệnh gỷ sắt

69,1

13,6

30,9

60,9

7,3

0,9

0,0

1

Bệnh khô cành, khô quả

46,4

9,7

53,6

38,2

5,4

2,3

0,5

4

Bệnh nấm hồng

48,2

6,9

51,8

40,0

5,4

2,3

0,5

3

Bệnh đốm         mắt cua

10,0

1,2

90,0

9,1

0,9

0,0

0,0

7

Bệnh lở cổ rễ

7,3

0,4

92,7

5,9

1,4

0,0

0,0

8

Bệnh thối nứt thân

30,5

3,5

69,5

21,8

6,4

2,3

0,0

5

Bệnh hại khác

12,5

15,8

87,5

8,3

4,2

0,0

0,0

6

Ghi chú: Thứ tự mức độ quan trọng bệnh nhất, nhì, ba… được xếp từ 1đến 8 cho 8 loại bệnh hại trên cây cà phê

Kết quả điều tra ở bảng 1 cho thấy cótrên 60% số vườn khảo sát đều bị 2 loại bệnh là: bệnhvàng lá, thối rễ; bệnh gỷsắt, tuy nhiên mức độ gây hạinhẹ. Tỷ lệ xuất hiện vườn bị bệnh khô cành khô quả và bệnhnấm hồng tương ứng 46,4% và 48,2 %, nhưng tỷ lệ cây bị hại thấp dưới 10%. Ngoài ra có xuất hiện một số bệnh như đốm mắt cua, lở cổ rễ và một số bệnh hại khác nhưng tỷ lệrất thấp. Đánh giá chung mức độ quan trọng của từng loại bệnh cho thấy:3 loại bệnh quan trọng cao nhất xuất hiện và gây hại nhiều nhất là: bệnh gỷ sắt, bệnh vàng lá thối rễ và bệnh nấm hồng.

Bệnh thối nứt thân cũng cho thấy xuất hiện nhiều ở vùng khảo sát. Biện pháp phòng trừ chủ yếu của người dân là cạo phần vỏ thân cây bị bệnh, quét vôi và thuốc trừ nấm với tỷ lệ đậm đặc hoặc nhổ bỏ và trồng cây mới.Người dân thường sử dụng thuốc Anvil 5SC, Tilt 250EC để phòng trừ bệnh gỷ sắt.

Bảng 2. Bệnh vàng lá, thối rễ

Huyện

Tỷ lệ vườn bị bệnh

Tỷ lệ cây bị bệnh

Mức độ hại

Không bệnh

Nhẹ

Trung bình

Nặng

Rất nặng

Đắk R lấp

Đắk Ru

50,0

10,8

50,0

45,0

5,0

0,0

0,0

Nghĩa Thắng

50,0

11,3

50,0

35,0

10,0

5,0

0,0

Nhân Đạo

70,0

12,8

30,0

50,0

15,0

5,0

0,0

Gia Nghĩa

Đắk R’Moan

35,0

6,8

65,0

35,0

0,0

0,0

0,0

Quảng Thành

70,0

10,0

30,0

65,0

0,0

5,0

0,0

Đắk Nia

55,0

10,7

45,0

45,0

5,0

5,0

0,0

Đắk Song

Trường Xuân

55,0

7,3

45,0

55,0

0,0

0,0

0,0

Đắk N’Drung

70,0

17,0

30,0

60,0

10,0

0,0

0,0

Đắk Mil

Đức Minh

80,0

16,9

20,0

70,0

10,0

0,0

0,0

Đức Mạnh

70,0

17,3

30,0

50,0

10,0

10,0

0,0

Thuận An

75,0

14,0

25,0

70,0

5,0

0,0

0,0

Trung bình

61,8

12,2

38,2

52,7

6,4

2,7

0,0

Số liệu khảo sát và đánh giá cho thấy tỷ lệ cây cà phê bị bệnhvàng lá, thối rễ xuất hiện ở tất cả các xã điều tra với tỷ lệ vườn bị hạicao 61,8 %, một số xã trên 70% như Thuận An (75 %), Đức Minh (80 %), tuy nhiên tỷ lệ cây bị bệnh trung bình (12,23 %).

3.1.2. Tình hình các loại bệnh hại quan trọng trên cây cà phê

– Bệnh gỷ sắt:Tiến hành điều tra khảo sát ở 11 xã thuộc 4 huyện điều tra tại tỉnh Đắk Nông cho thấy bệnh gỷ sắt là một trong những bệnh xuất hiện phổ biến ở tất cả các xã, với tỷ lệvườn bị bệnhcao (68,6%). Một số xã xuất hiện vườn bị bệnhcao 85% (xã Đức Minh) thậm chí 90% ở xã Quảng Thành. Mặc dù xuất hiện ở tất cả các xã nhưng tỷ lệ cây bị bệnh thấp 13,6 %  và ở mức độ nhẹ. Biện pháp xử  lý chính của nông dân là phun thuốc hóa học khi có bệnh như Anvil 5SC, Tilt 250EC.

– Bệnh khô cành khô quả: Tương tự bệnh gỷ sắt, bệnh khô cành khô quả quả cũng được điều tra khảo sát với tỷ lệ xuất hiện 46,4% trên tổng số vườn điều tra nhưng tỷ lệ hại rất thấp dưới 10% ở mức độ nhẹ.

– Bệnh nấm hồng: Bệnh nấm hồng, một trong những bệnh xuất hiện và gây hại nhiều trong mùa mưa. Tỷ lệ xuất hiện  48,2% tổngsốvườn được điều tra, tuy nhiên với tỷ lệ bệnh rất thấp 6,9% và ở mức độ nhẹ. Biện pháp phòng trừ chủ yếu của người dân là phun cục bộ thuốc trừ nấm cho những cây bị bệnh và cắt bỏ, tiêu hủy những cành bị bệnh.

– Bệnh đốm mắt cua: Bệnh đốm mắt cua thường xuất hiện quanh năm trên những vườn cà phêchăm sóc kém, thiếu phân bón hoặc trồng trên nền đất xấu.Kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ bệnh xuất hiện chỉ 10% tổng số vườn điều tra. Cao nhất là xã Đức Mạnh với tỷ lệ 40%.Một số xã không xuất hiện bệnh này: Đức Minh, Đắk N’Drung, Đắk Nia, Đắk R’Moan và Nghĩa Thắng.

– Bệnh thối nứt thân: Bệnh thối nứt thân được coi là bệnh gây hại nghiêm trọng đến một số vườn cà phê.Kết quả điều tra cho thấy bệnh xuất hiện ở tất cả các xã điều tra với tỷ lệ vườn bệnh là30,5% vàtỷ lệ cây bị bệnh thấp 3,49% ở mức độ nhẹ.Tuy nhiên đề phòng trừ bệnh này cần phải thực hiện nhiều biện pháp và diện rộng như vệ sinh đồng ruộng, tiêu hủy cây bệnh nặng, tàn dư bệnh.Tạo hình thông thoáng – Bệnh lở cổ rễ: Bệnh lở cổ rễ chủ yếu xuất hiện trong giai đoạn vườn ươm và kiến thiết cơ bản.Bệnh do nấm Rhizoctonia solani gây ra.Nấm gây hại ở phần cổ rễ sát mặt đất, làm cổ rễ bị teo, khô thắt lại, cây bị héo và ngã rạp. Đối với cây lớn, cây bị vàng, héo lá và chết. Bệnh xuất hiện với tỷ lệ rất thấp 0,35% số vườn điều tra thuộc dự án.

3.2. Các biện pháp quản lý bệnh hại

Kết quả điều tra thực trạng ghi nhận, biện pháp phòng trừ dịch trên cà phê vùng
Đắk Nông khu vực trọng điểm chủ yếu dựa vào thuốc hóa học, 95,5% người dân tham gia phỏng vấn cho biết chỉ sử dung thuốc hóa học khi có bệnh xuất hiện và sử dụng thuốc định kỳ hàng năm, tuy nhiên hiệu quả phòng trừ chưa cao.Điều này lo ngại rằng sẽ mất đi cân bằng sinh thái trong vườn cây và hình thành tính kháng thuốc trong một số bệnh. Biện pháp sinh học và hóa học kết hợp sinh học chưa được người dân áp dụng.

Bảng 3. Biện pháp phòng trừ

Huyện

Biện pháp phòng trừ

Sử dụng thuốc BVTV

Không phòng trừ

Hóa học

Sinh học

Hóa học + sinh học

Có bệnh mới sử dụng

Sử dụng thuốc theo định kỳ

Sử dụng toàn vườn

Sử dụng những cây bị bệnh

Đắk R lấp

Đắk Ru

0

95

0

5

25

25

35

15

Nghĩa Thắng

0

100

0

0

30

50

20

0

Nhân Đạo

0

80

5

15

55

20

5

20

Gia Nghĩa

Đắk R’Moan

10

90

0

0

45

30

15

10

Quảng Thành

0

100

0

0

30

40

15

15

Đắk Nia

0

100

0

0

40

30

20

10

Đắk Song

Trường Xuân

0

100

0

0

35

25

30

10

Đắk N’Drung

5

85

5

5

35

35

20

10

Đắk Mil

Đức Minh

0

100

0

0

55

30

5

10

Đức Mạnh

0

100

0

0

50

5

15

30

Thuận An

0

100

0

0

20

60

15

5

Trung bình

1,4

95,4

0,9

2,3

38,2

31,8

17,7

12,3

Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong việc phòng trừ các loại sâu bệnh hại trên cà phê theo nguyên tắc 4 đúng: đúng thuốc, đúng liều lượng và nồng độ, đúng lúc, đúng cách sẽ cho hiệu quả tối ưu của việc phòng trị. Vì vậy, người nông dân trồng cà phê cần phải được tập huấn để nắm rõ các nguyên tắc trên để hạn chế tối đa sự gây hại của bệnh hại cũng như bảo vệ sức khỏe cho chính bản thân của người thực hiện.

Kết quả khảo sát cho thấy 15,5% hộ nông dân có kho và địa điểm lưu trữ thuốc riêng đảm bảo sức khỏe cho người và gia súc gia cầm, ngoài ra tỷ lệ hộ nông dân chỉ mua thuốc khi cần sử dụng chiếm tỷ lệ cao (>80%). Tỷ lệ hộ sử dụng máy phun cao áp chiếm 81,4%, và phun cho toàn vườn khi thấy có bệnh còn rất cao (17,7%); 23,2% sử dụng phun tay khi áp dụng cho phun cục bộ những cây bị bệnh. Người dân tham gia khảo sát cho biết họ cũng đã có ý thức bảo vệ sức khỏe cho bản thân khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật bao gồm các bảo hộ lao động như: găng tay, khẩu trang, kính đeo mắt ủng cao su và mũ nón. Tuy nhiên bảo hộ chuyên dùng chưa được sử dụng rộng rãi trong người dân (45,5% số hộ chưa sử dụng), ngoài ra một tỷ lệ thấp người dân vẫn chưa ý thức được khi dùng thuốc bảo vệ thực vật, vẫn có ý chủ quan coi nhẹ sức khỏe khi sử dụng thuốc.

Một điều đáng quan tâm trong quá trình khảo sát là có nhiều hộ chưa bao giờ tham gia các khóa tập huấn về biện pháp phòng trừ sâu bệnh hại cà phê (chiếm 52,3 %), cá biệt ở xã Đức Minhcó trên 80 % số hộ chưa được tham gia tập huấn lần nào. Các hộ nông dân này đều rất mong muốn được tham gia các khóa tập huấn về sâu bệnh hại trên cây cà phê.Đây là những mong muốn thực sự của người dân trồng cà phê.Họ mong muốn được tập huấn để biết cách nhận diện các loại sâu bệnh hại chính trên cây cà phê và biện pháp phòng trừ để hạn chế sự gây hại của sâu bệnh. Điều này cũng lý giải tại sao: tỷ lệ hộ nông dân sử dụng thuốc bảo vệ theo định kỳ để phòng trừ sâu bệnh hại cà phê là tương đối cao. Việc làm này sẽ rất lãng phí thuốc, làm mất cân bằng sinh thái, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người sản xuất cà phê và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Ngoài ra một tỷ lệ rất cao 92,3% người dân chưa bao giờ gửi mẫu phân tích dinh dưỡng cũng như sâu bệnh hại, sự phán đoán sâu bệnh chỉ dựa trên kinh nghiệm và chỉ dẫn của cửa hàng bán thuốc bảo vệ thực vật.

4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

4.1. Kết luận

– Kết quả điều tra cho thấy ba loại bệnh hại chính trên cà phê xuất hiện ở tất cả các huyện điều tra với tỷ lệ vườn bị nhiễm rất cao là bệnhvàng lá, thối rễ (61,8%), bệnhgỷsắt (69,1%) và bệnhnấm hồng (48,2%).

– Biện pháp phòng trừ bệnh hại trên cà phê chủ yếu dựa vào thuốc hóa học (chiếm 95,5% số hộ), và biện pháp sinh học hoặc hóa học kết hợp sinh học hầu nhưchưa được người dân áp dụng với tỷ lệ hộ sử dụng rất thấp (≤2,3%). Tỷ lệ hộ sử dụngmáy phun cao áp chiếm 81,4%, và phun cho toàn vườn khi thấy có bệnh còn rất cao (17,7%).

4.2. Đề nghị

Đối với các loại bệnh hại trên cà phê cần có một chế độ chăm sóc hợp lý và biện pháp phòng trừ bệnh tổng hợp từ khâu thăm vườn vệ sinh đồng ruộng đến bón phân tưới tiêu và sử dụng biện pháp bảo vệ thực vật vừa hóa học kết hợp sinh học nhằm cân bằng môi trường sinh thái tạo sự phát triển cà phê bền vững. Cần có những chương trình tập huấn, hội thảo cho bà con nông dân, giúp người dân tiếp cận với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và những hiểu biết cơ bản về phòng trừ các loại bệnh  trên cà phê một cách khoa học và có hiệu quả nhất.